Nếu dự án bảo tồn voi của Bộ Nông nghiệp&Phát triển Nông thôn (NNPTNT) kéo dài đến năm 2020 thì e rằng voi đợi không nổi vì tình trạng của đàn voi rất nguy cấp - ông Trần Văn Mùi, Giám đốc Khu Bảo tồn Thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai, tại tỉnh Đồng Nai, lo lắng.
Ném bình gas đuổi voi
Việt Nam được biết đến như một quốc gia có khá nhiều voi, phân bố khắp mọi miền đất nước. Vậy mà giờ đây, các tổ chức bảo tồn trên thế giới liên tục cảnh báo voi Việt Nam đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Một con voi ở Đắk Lắk phải chịu hàng trăm nhát chém của kẻ xấu
Theo các chuyên gia bảo tồn động vật, một trong những mối đe dọa đến sự tồn tại của voi là sự xung đột giữa voi và người dân bản địa. Khi dân số tăng nhanh, con người ngày càng lấn sâu vào những vùng sinh cảnh trước đây vốn là nơi trú ngụ của voi cũng như các loài động vật hoang dã khác.
Thông tin trên Báo Người Lao Động số ra ngày 28/2 cho biết trước năm 2003, voi thường xuất hiện tại Tà Lài (huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai), phá hoại hoa màu tại đây. Năm 2008, một con voi ngà lệch thường xuyên đến phá nát các vùng trồng hoa màu của người dân địa phương. Năm 2009, hai xã Phú Lý và Mã Đà (huyện Vĩnh Cửu) có bốn ấp với 57 hộ bị ảnh hưởng do voi đến ăn hoa màu gây thiệt hại nặng.
Dù chưa gây thiệt hại về người nhưng nguy cơ xảy ra điều này là khá lớn vì người dân đã sử dụng nhiều biện pháp xua đuổi mạnh tay như ném bình gas nhỏ vào voi cho nổ, ném lửa vào voi, soi đèn pha, dùng còi hụ có cường độ lớn… Ngoài ra, nạn săn bắn, giết hại voi đã khiến số voi tại tỉnh này giảm đáng kể. Từ năm 2009 đến nay, tại tỉnh Đồng Nai đã có chín con voi bị chết vì nhiều lý do khác nhau.
Mua lông đuôi voi lấy may
Tỉnh Đắk Lắk được xem là quê hương của voi nhà nhưng đàn voi ở tỉnh này đã suy giảm nhanh chóng. Một trong các “thủ phạm” dẫn đến tệ trạng này chính là con người.
Nghị định 32/2006/NĐ-CP xếp voi vào nhóm IB: Nghiêm cấm khai thác và sử dụng với mục đích thương mại. Tuy nhiên, hiện nay mua một vài sợi lông đuôi voi hay một món đồ làm từ ngà voi… không khó khăn gì. Phần lớn du khách khi tới Khu Du lịch Bản Đôn hoặc Lắk (Đắk Lắk) đều tìm mua vài sợi lông đuôi voi vì cho rằng nó sẽ đem lại cho họ nhiều may mắn.
Kẻ gian thường xuyên rình rập chờ các chủ voi sơ hở để hãm hại voi lấy ngà, đế chân, lông… đem bán. Nhiều vụ bắn giết voi diễn ra gần đây đã thể hiện sự nhẫn tâm của con người đối với loài vật rất thân thiện này. Trong 10 con voi nhà đã chết từ năm 2009 đến nay, phần lớn là bị kẻ gian hãm hại.
VnExpress dẫn lời các nhà khoa học cho biết, những năm qua voi nhà bị sát hại, có con bị chém tới 217 vết, có con bị giết bởi búa tạ và kích điện. “Đáng lên án hơn là chính chủ voi đi giết con voi của mình và dựng lại hiện trường lên cơ quan chức năng để xin lại xác voi”, nhà báo Doãn Hoàng, người tham gia chương trình khảo sát dọc các tỉnh Tây Nguyên, thông báo.
Chỉ tính riêng trong năm 2011, trên địa bàn Đắk Lắk đã có gần 10 con voi rừng bị chết, trong đó không ít con chết dưới bàn tay con người.
Ngoài ra, còn một nguyên nhân khác là hiện nay tất cả voi nhà ở Đắk Lắk đều có “việc làm” ổn định trong các khu du lịch, vì vậy trong vòng 20 năm qua, voi không sinh sản được, kể cả những con voi trong độ tuổi sung mãn nhất.
Ông Đặng Văn Long, sở hữu bốn con voi đực và năm con voi cái ở huyện Lắk, cho biết: “Từ năm 1992 đến nay, tôi đã dùng mọi cách để cho voi sinh sản nhưng đều thất bại”.
“Việc nuôi voi riêng lẻ, phục vụ du lịch đã hạn chế khả năng sinh sản của voi. Nếu chúng ta không hành động khẩn trương thì chỉ khoảng 20 năm nữa, voi nhà ở Đắk Lắk sẽ tuyệt chủng”, PGS-TS Bảo Huy, Phó trưởng Khoa Nông Lâm – Trường ĐH Tây Nguyên, chia sẻ với Người Lao Động.
Theo số liệu của Trung tâm Bảo tồn Voi Đắk Lắk, hiện còn khoảng 80-110 cá thể voi rừng, trong đó khoảng 4-5 cá thể sống trong lâm phần của Công ty Lâm nghiệp Chư Pảh (huyện Ea H’Leo); khoảng 20 cá thể sống trên lâm phần của Công ty Lâm nghiệp Ya H’Mơ và Ya Lốp (huyện Ea Súp); số còn lại tập trung trong lâm phần của Vườn Quốc gia Yok Đôn (huyện Buôn Đôn).
Môi trường sống bị xâm hại, chia cắt làm mất hành lang di chuyển theo mùa của voi để tìm kiếm thức ăn, gặp gỡ và giao phối. Những nguyên nhân này làm cho voi bị cô lập, thiếu nước, muối khoáng, thức ăn… nên chúng thường xuyên về nương rẫy phá hoại cây trồng, thậm chí vào tận nhà đe dọa con người. Khi bị xua đuổi, đàn voi ngày càng hung dữ, có lúc chống trả kịch liệt.
Chậm và thụ động
Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 773/QĐ-TTg về khẩn trương triển khai kế hoạch hành động bảo tồn voi, thực hiện tại Nghệ An, Đắk Lắk và Đồng Nai. Tuy nhiên, đến nay mọi thứ vẫn chưa đâu vào đâu.
Nguyên nhân chậm trễ được Bộ NNPTNT nêu là vì các địa phương chưa được bố trí kinh phí thực hiện. Do đó, Bộ vừa có văn bản kiến nghị Thủ tướng gia hạn kế hoạch bảo tồn voi đến năm 2020 với tên gọi “Kế hoạch hành động khẩn cấp đến năm 2020 để bảo tồn voi Việt Nam”.
Theo ông Mùi, voi sinh sống ở ba khu vực gần nhau gồm Khu Bảo tồn Thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai, Vườn Quốc gia Cát Tiên và Công ty TNHH Một Thành viên Lâm nghiệp La Ngà.
“Tình trạng của đàn voi rất nguy cấp, nếu dự án bảo tồn voi của Bộ NNPTNT kéo dài đến năm 2020 thì e rằng voi đợi không nổi!”, ông Mùi lo lắng.
Chính vì thế, UBND tỉnh Đồng Nai đã phê duyệt dự án xây dựng hàng rào điện nhằm hạn chế xung đột giữa voi và người trên địa bàn Khu Bảo tồn Thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai. Theo đó, tỉnh xây 20 km hàng rào điện cố định và 10 km hàng rào điện di động với tổng kinh phí 9 tỉ đồng. Năm nay, UBND tỉnh đã ghi vốn cho dự án ba tỉ đồng, bắt đầu thực hiện từ tháng 2/2012, dự kiến đến cuối năm 2013 sẽ hoàn thành.
Ông Trần Thế Liên, Vụ trưởng Vụ Bảo tồn Thiên nhiên (Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NNPTNT), cho biết Nghệ An và Đắk Lắk đều đã xây dựng kế hoạch và được bố trí vốn cho dự án bảo tồn voi trước năm 2010 (Đắk Lắk 66 tỉ đồng, Nghệ An 14 tỉ đồng). Còn Đồng Nai thì đến cuối năm 2011 mới gửi dự án cho Bộ NNPTNT thẩm định.
Khi đó đã hết thời hạn thực hiện kế hoạch nên không tìm được nguồn vốn bố trí cho Đồng Nai (dự kiến khoảng 35 tỉ đồng). Dù vậy, theo ông Liên, tuy chưa được bố trí vốn cho dự án cụ thể nhưng các địa phương nói trên vẫn có nguồn vốn từ kế hoạch bảo vệ phát triển rừng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hằng năm, trong đó có hạng mục bảo tồn voi, để sử dụng trước.
Tỉnh Đắk Lắk cũng được yêu cầu bảo tồn voi khẩn cấp theo Quyết định 733/2006/QĐ-TTg. Tuy nhiên, quyết định này bị những người có trách nhiệm ở tỉnh Đắk Lắk “hiểu nhầm” thành dự án phát triển du lịch nên giao cho Sở Thương mại và Du lịch (trước đây) triển khai. Do sở này không có chuyên môn về bảo tồn động vật hoang dã nên sau một thời gian lúng túng, kế hoạch khẩn lại quay về… điểm xuất phát! Trước thực trạng số lượng voi suy giảm nhanh chóng, đến ngày 26-10-2010, dự án bảo tồn voi Đắk Lắk giai đoạn 2010-2015 mới được UBND tỉnh phê duyệt.
Kế hoạch xây dựng trụ sở làm việc, bệnh viện cho voi trên diện tích 200 ha tại Vườn Quốc gia Yok Đôn cũng đã được UBND tỉnh Đắk Lắk đề xuất nhưng không được Bộ NNPTNT đồng ý vì nằm trong khu vực bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia Yok Đôn. Hiện Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk và UBND tỉnh Đắk Lắk đang tiến hành khảo sát nhằm xin 200 ha tại khu vực vành đai Vườn Quốc gia Yok Đôn để xây dựng trung tâm bảo tồn voi. Như vậy, sau hơn một năm dự án bảo tồn voi Đắk Lắk được phê duyệt, đến nay cơ quan chức năng vẫn còn loay hoay tìm vị trí xây dựng.
Một nguyên nhân chính dẫn đến việc dự án triển khai chậm đó là do thiếu kinh phí. Dự án bảo tồn voi Đắk Lắk có kinh phí 61 tỉ đồng, hoạt động trong vòng năm năm nhưng hiện mới chỉ giải ngân được 350 triệu đồng. Số tiền này mới chỉ đủ trả lương cho cán bộ công nhân viên.
“Nếu để mất đàn voi nhà, chúng ta không chỉ mất con voi mà mất cả một phần ký ức dân tộc. Voi là loài vật không lồ nhất còn sống trên cạn mà loài người có thể nhìn thấy được. Chỉ tiếc khi con người thành gã ‘khổng lồ’, với sự ‘nhẫn tâm’ đã khiến đàn voi trở nên yếu đuối và trở thành kẻ bị bỏ rơi”, nhà sử học Dương Trung Quốc nhấn mạnh trên VnExpress.
"Tương lai của công tác bảo tồn loài ở Việt Nam dường như rất ảm đạm. Loài tê giác Java có lẽ đã bị tuyệt chủng, loài voi đang bị tuyệt chủng và không ai biết được có bao nhiêu cá thể những loài có tầm quan trọng sinh thái cao như sao la và hổ còn sống sót", bà Sarah Brook, Điều Phối viên Bảo tồn Loài của Quỹ Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) Chương trình Việt Nam, trả lời phỏng vấn trên Báo Khoa học&Đời sống về vấn đề bảo tồn voi và các loài động vật hoang dã khác ở Việt Nam.
- Những năm 1980, ước tính cả nước có khoảng 1.500 con voi; đến năm 1990, ước còn 300 con; đến năm 2002, chỉ còn khoảng 59-81 con, phân bố ở 11 khu vực, trong đó có 82% khu vực đã xảy ra xung đột giữa voi và người. Như vậy, chỉ trong vòng 2 thập kỷ, cả nước có hơn 1.400 con voi chết.
- Ông Trịnh Việt Cường, Viện Sinh thái&Tài nguyên Sinh vật Việt Nam, cho biết nhiều địa phương như Sơn La, Lai Châu… trước kia có khá nhiều voi nhưng nay không còn; một số địa phương như Hà Tĩnh, Bình Phước… từng ghi nhận có đàn voi nhỏ nhưng hiện nay thiếu thông tin do kẹt kinh phí khảo sát. Cả nước hiện có 2 nhóm voi lớn tại Đắk Lắk (ước trên 50 con) và Đồng Nai (từ 15-20 con) và một quần thể voi tại Vườn Quốc gia Pù Mát (Nghệ An). Tuy nhiên, số liệu khảo sát về hai đàn voi lớn của Việt Nam cũng đã thực hiện từ năm 2007, đến nay đã có nhiều biến động.
- Chỉ có duy nhất một loài voi ở Việt Nam: loài voi châu Á (Elephas maximus), phân bố dọc Đông Nam Á, Ấn Độ, Nepal và Sri Lanka. Quần thể voi ở Việt Nam đã bị suy giảm nhiều do nạn săn bắn và mất môi trường sống. Hiện nay, chỉ còn những quần thể nhỏ và cô lập tại khu vực miền Trung và phía Nam (Đắk Lắk, Đắk Nông, Đồng Nai, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Nam). Ngoại trừ một số cá thể được đưa qua biên giới Lào vào tỉnh Sơn La, miền Bắc không còn cá thể nào. Loài voi châu Á tại Việt Nam sẽ đứng bên bờ tuyệt chủng trong vòng một vài năm tới nếu như tỉ lệ săn trộm tiếp tục tăng như hiện nay.
- Việt Nam đã ban hành một số điều luật qui định chặt chẽ việc bảo vệ động vật hoang dã, tuy nhiên, việc thực thi pháp luật chưa được mạnh mẽ: các khu bảo tồn không được bảo vệ hợp lý và nạn buôn bán động vật hoang dã phức tạp với lợi nhuận rất cao. Với việc thực thi pháp luật không mạnh mẽ, thì việc buôn bán động vật hoang dã khó có thể giải quyết được.
|
Nhiều nước bảo tồn voi thành công
Nhiều quốc gia châu Á đã triển khai chương trình bảo tồn voi từ rất sớm và đạt được nhiều kết quả. Ở Indonesia, sáu trung tâm huấn luyện được thành lập từ năm 1985, về sau đổi tên thành trung tâm bảo tồn voi, hiện đang tạo điều kiện sống tốt cho 350 con voi nhà. Tại Sri Lanka, khoảng 4.000 - 5.000 con voi hoang dã được bảo vệ tốt nhờ chính sách kiên trì giữ khu rừng và hệ thống vườn quốc gia. Dự án bảo tồn voi của Ấn Độ cũng rất thành công với việc thành lập 25 trung tâm bảo tồn, bảo vệ môi trường sống và phục hồi cách thức di trú truyền thống của các đàn voi hoang dã. Đặc biệt, tại Thái Lan, ngoài kết quả bảo tồn, gần đây, họ đã nghiên cứu sinh sản nhân tạo thành công, qua đó mở ra khả năng mới cho bảo tồn voi bền vững…
|
Mai Anh (tổng hợp)
(VFEJ)