quản lý tòa nhà

logo Tạp chí TNMT-VACNE Vì Môi trường Xanh Quốc gia 2024
HỘI THẢO KH

VIỆT NAM: Phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu (Phần 4): Phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu

Chủ Nhật, 24/03/2013 | 12:01:00 PM

Bài viết của GS.TSKH. Trương Quang Học, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI, Trưởng ban Biến đổi khí hậu của VACNE (Tiếp theo)

3.    Phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu
3.1.Bối cảnh biến đổi toàn cầu
Hiện nay nhân loại đang đứng trước những cuộc khủng hoảng lớn, bao gồm:
3.1.1.                        Khủng hoảng khí hậu
Khủng hoảng khí hậu/Biến đổi khí hậu, mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng, là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với loài người trong Thế kỷ XXI. BĐKH tác động tới mọi lĩnh vực, bao gồm tài nguyên thiên nhiên, môi trường, kinh tế-xã hội và sức khỏe con người. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của nó có thể khác nhau tùy theo điều kiện địa lý, mức độ phát triển và các biện pháp thích ứng mà các khu vực cũng như các quốc gia cụ thể áp dụng. Cộng đồng quốc tế đang cố gắng để có được các giải pháp hữu hiệu nhằm ứng phó với BĐKH trên phạm vi toàn cầu. Nhiều quốc gia đã xây dựng và thực hiện các kế hoạch thích ứng với BĐKH (UNDP, 2007; IPCC, 2007; WB, 2010; 211) .
Bên cạnh BĐKH, hiện nay, thế giới cũng đang phải đối mặt với bốn cuộc khủng hoảng lớn nữa: khủng hoảng tài chính, khủng hoảng năng lượng,  khủng hoảnh lương thực và suy thoái tài nguyên.
3.1.2.                         Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính 2007-2010 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng. Tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ xảy ra trên quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ, do mối quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam.
3.1.2. Khủng hoảng năng lượng
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng năng lượng lần này là do: (i) dầu lửa và các nhiên liệu hóa thách khác ngày càng cạn kiệt (than đá chỉ con khái thác được khoảng 250 năm, dâu khí – 60 năm); (ii) nhu cầu năng lượng của các nước, nhất là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi (Trung Quốc, Ấn Độ) ngày càng cao; (iii) sự bất ổn về an ninh ở các khu vực chiến lược về năng lượng của thế giới làm ảnh tới lượng dầu khai thác; và (iv) sự bất đồng quan điểm giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế, nhất là giữa Mỹ và các thành viên OPEC đã gây ra cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay.
Giá dầu lửa và lương thực tăng vọt trong thời gian gần đây đã và đang tác động trực tiếp, gây ảnh hưởng nặng nề tới nhiều quốc gia (giá cả sinh hoạt, lạm phát tăng, sản xuất bị ảnh hưởng), nhất là các quốc gia đang và kém phát triển.
Điều này đã buộc cộng đồng quốc tế phải có những chiến lược mới để ứng phó, bao gồm: (i) đa dạng hóa các nguồn cung cấp năng lượng (năng lượng hạt nhân, năng lượng tái sinh và năng lượng sinh học); và (ii) tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng.
3.1.3. Khủng hoảng lương thực
Cuộc khủng hoảng lương thực trên phạm vi toàn cầu trong thời gian gần đây đã ảnh hưởng lớn tới đời sống của người dân ở nhiều quốc gia, đẩy hơn 100 triệu người vào tình trạng đói kém. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng lương thực bao gồm: (i) diện tích sản xuất lượng thực ngày càng giảm, làm cho lượng dự trữ lương thực của thế giới hiện nay ở mức thấp nhất trong vòng 25 năm qua; (ii) biến đổi khí hậu tác động mạnh tới sản xuất nông nghiệp (làm gia tăng thiên tai, dịch bệnh, giảm năng suất cây trồng), làm lượng lương thực dự trữ ngày càng giảm; và (iii) sản xuất nhiên liệu sinh học (sản xuất diêzen sinh học từ lương thực) để thay thế nhiên liệu hóa thạch nhằm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
3.1.4. Suy thoái/khủng hoảng tài nguyên
Sự suy thoái ba nguồn tài nguyên quan trọng nhất là nước, đất và sinh vật đang là những vấn đề môi trường cấp bách, mang tính toàn cầu. Cách tiếp cận quản lý tổng hợp tài nguyên – quản lý tài nguyên dựa trên hệ sinh thái là xu hướng chủ đạo trong quản lý bền vững tài nguyên ở nhiều quốc gia hiện nay trong khuôn khổ một Chương trình quốc tế chung “Đánh giá hệ sinh thái thiên niên kỷ”.
3.2. Xu hướng Phát triển bền vững toàn cầu
Trong bối cảnh như vậy, chiến lược dài hạn của thế giới cũng như của các nước tập trung theo 3 hướng phát triển: (i) xã hội cacbon thấp/tăng trưởng xanh; (ii) xã hội tái tạo tài nguyên; và (iii) xã hội hài hòa với thiên nhiên.
a.    Xã hội cacbon thấp/Kỷ nguyên năng lượng – khí hậu
Như trên đã phân tích, thế giới hiện nay đang đứng trước những thách thức lớn lao về môi trường và “tính từ bây giờ chúng ta còn vừa đủ thời gian” để giải quyết vấn đề, nếu không, sẽ quá muộn.
Biến đổi khí hậu là một thảm họa đối với nhân loại và chúng ta đang bế tắc chưa tìm được cách giải quyết, nhất là sau COP15 vừa qua tại Copenhagen, COP 17 tại Durban. Tuy nhiên, một số người lại cho rằng, có “một loạt cơ hội ẩn sau những vấn đề tưởng như không giải quyết nổi” này và dự đoán rằng Kỷ nguyên mới trước mắt sẽ là một trong những kỷ nguyên thay đổi lớn nhất về xã hội, chính trị và kinh tế. Kỷ nguyên, trong đó có những đột phá lớn trong các lĩnh vực năng lượng sạch và thái độ trân trọng đối với tự nhiên, với tài nguyên rừng, biển, những điểm nóng về đa dạng sinh học, sẽ hướng tới một xã hội cacbon thấp và hài hòa với tự nhiên.
Phải nhìn nhận rằng đây là một cơ hội lớn cho những ai có tầm nhìn xa. Rất đơn giản, vì con người không thể tiếp tục cung cấp năng lượng cho sự phát triển bằng hệ thống dựa trên nhiên liệu hóa thạch tồn tại suốt thời Cách mạnh Công nghiệp đến nay và bắt buộc chúng ta phải chuyển sang một Kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên năng lượng – khí hậu (Friedman, 2005, 2008).
Xã hội cacbon thấp gồm 3 nội dung: (i) duy trì hoạt động kinh tế hiệu quả trong khi tối thiểu hóa sử dụng năng lượng và tài nguyên; (ii) tối thiểu hóa áp lực về môi trường với việc sử dụng mỗi nguồn năng lượng và tài nguyên; và (iii) đầu tư vào môi trường, một công cụ để phát triển kinh tế.
b.    Xã hội tái tạo tài nguyên
Xã hội tái tạo tài nguyên nhằm tiết kiệm và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất.
c.     Xã hội hài hòa với tự nhiên
Nội dung này đã được khẳng định trong Hội nghị các bên tham gia Công ước ĐDSH lần thứ 10 (COP10) tại Nagoya, Nhật Bản năm 2010. Theo đó, Liên Hợp Quốc phát động “Năm quốc tế về rừng” (2011) và “Thập kỷ Giao dục giá trị của ĐDSH” (2011-2020), nhằm nâng cao nhận thức về ĐDSH, đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn ĐDSH và sống thân thiện, hài hòa với thiên nhiên trên phạm vi toàn cầu (Ban Thư ký Công ước Đa dạng sinh học, 2010; Sumi et al., 2011; Ngân hàng Thế giới, 2012, The European Commision, 2012).
d.    Tăng trưởng xanh một chiến lược phát triển kinh tế và ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững
Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), Kinh tế Xanh là nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái. Nói một cách đơn giản, nền Kinh tế Xanh có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hướng tới công bằng xã hội. 
Trong khi tài nguyên trên thế giới đang dần cạn kiệt, đa dạng sinh học bị suy giảm, ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, nhiều quốc gia lựa chọn Kinh tế Xanh là mô hình phát triển mới để giải quyết đồng thời những vấn nạn đang tiếp diễn phức tạp. Mô hình kinh tế mới này ghi nhận giá trị và vai trò của đầu tư vào vốn tự nhiên, tạo ra việc làm, là trụ cột để giảm nghèo. Thay vì sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nền Kinh tế Xanh sử dụng năng lượng tái tạo và công nghệ các-bon thấp, khuyến khích sử dụng nguồn lực và năng lượng hiệu quả hơn. Như vậy “Nền Kinh tế Xanh” là sự nâng cấp của “Kinh tế Môi trường” trong bối cảnh biến đổi toàn cầu.
Các sáng kiến được các cơ quan Liên hợp quốc thúc đẩy hướng tới nền Kinh tế Xanh như Nông nghiệp thông minh với khí hậu (FAO phát động), Đầu tư công nghệ sạch (WB), Việc làm xanh (ILO), Kinh tế Xanh (UNEP), Giáo dục vì phát triển bền vững (UNESCO), Xanh hoá khu vực y tế (WHO), Thị trường công nghệ xanh (WIPO), Tiêu chuẩn công nghệ thông tin xanh (ITU), Giải pháp năng lượng xanh (UN WTO), Sản xuất sạch hơn và hiệu quả nguồn tài nguyên (UNEP và UNIDO), Các thành phố và biến đổi khí hậu (UN-HABITAT), Tái chế tàu biển (IMO),… đã thu được những kết quả tốt đẹp.
Theo tính toán của UNEP, năm 2009, cộng đồng EU và Mỹ đã tạo ra 2 - 3,5 triệu việc làm khi xây dựng các tòa nhà xanh, Trung Quốc tạo nên 10 triệu việc làm trong lĩnh vực tái chế và năng lượng tái tạo với doanh thu 17 tỷ USD/năm. Ngân hàng Thế giới đánh giá nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Kinh tế Xanh như xây dựng, năng lượng, vận tải ở các nước đang phát triển có thể lên tới 563 tỷ USD vào năm 2030 cùng với 100 tỷ USD để thích nghi với BĐKH.
Tiên phong trong chiến lược này là Hàn Quốc. Chiến lược “Tăng trưởng xanh, ít cacbon” là mục tiêu mà Hàn Quốc đề ra cho tương lai của đất nước. Chiến lược xác định tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng là 2,7% (năm 2009), 3,78% (năm 2013) và hơn gấp đôi lên đến 6,08% (năm 2020); đồng thời đề ra mục tiêu trung hạn giảm phát thải khí nhà kính dự kiến sẽ xuống còn 30% vào trước năm 2020... Với sự quyết tâm của chính phủ, sự ủng hộ tích cực của người dân, của giới khoa học và doanh nghiệp, Chiến lược Tăng trưởng xanh của Hàn Quốc đã có những thành công rực rỡ, đã có tốc độ tăng trưởng dương (0,2%); năm 2010, tăng trưởng đạt 6,1%, cao nhất trong vòng 8 năm qua.
Những dữ liệu thực tế này cho thấy, gieo mầm Kinh tế Xanh, tạo nên tăng trưởng xanh là chiến lược cho phát triển bền vững ở tương lai. Bên cạnh đó, thực tiễn tại các nước cũng cho thấy rằng việc thúc đẩy tăng trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh tạo ra tiềm năng to lớn để đạt được PTBV và giảm đói nghèo với tốc độ chưa từng thấy đối với tất cả các quốc gia. Riêng đối với các quốc gia đang phát triển, tăng trưởng xanh còn tạo đà cho một bước “nhảy vọt” để phát triển kinh tế mà không cần theo con đường phát triển kinh tế “ô nhiễm trước, xử lý sau”, “kinh tế nâu” (UNDP, 2007; The 3rd C40 Large Cities Climate Summit, Seoul 2009; Ngân hàng Thế giới, 2012; Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2012b).
 
 

Lượt xem: 3099

Các tin khác

Tri thức bản địa và sinh kế cộng đồng nhìn từ nguồn gen

(02/06/2014 01:59:PM)

Dãy Trường Sơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu

(28/05/2014 11:49:AM)

Bảo tồn sự đa dạng văn hóa-sinh học của các dân tộc trên dãy Trường Sơn

(23/05/2014 10:48:AM)

Có nên phát triển vùng trồng ba kích Tây Giang?

(22/05/2014 05:29:AM)

Mời dự Hội thảo khoa học về sản xuất sạch hơn

(28/03/2014 03:30:PM)

Thăm vùng thảm họa động đất – sóng thần ở Nhật Bản: Cuộc sống đã phục hồi (Phần cuối)

(22/03/2014 09:28:AM)

Thăm vùng thảm họa động đất – sóng thần ở Nhật Bản: Cuộc sống đã phục hồi (Phần 1)

(20/03/2014 08:56:PM)

Một số vấn đề trong nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường ở các quốc gia Đông Bắc Á và khuyến nghị (Phần cuối)

(01/03/2014 03:29:PM)

Một số vấn đề trong nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường ở các quốc gia Đông Bắc Á và khuyến nghị (Phần 2)

(27/02/2014 09:00:PM)

VIDEO

Truyền hình TN-MT Số 03: Bảo tồn Cây Di sản, Anh hùng ĐDSH, ...

Xem thêm

TRANG VÀNG MÔI TRƯỜNG VACNE