Đầu tháng 4 vừa qua, nhóm tác giả Phùng Đức Tiến, Nguyễn Duy Điều, Hoàng Văn Lộc, Bạch Thị Thanh Dân ở Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương – Viện Chăn nuôi đã công bố kết quả của đề tài “Đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi” được thực hiện từ năm 2006 – 2008. Kết quả của đề tài thực sự là một hồi chuông cảnh báo về mức độ ô nhiễm do chăn nuôi gây ra cho cộng đồng.
Th.s.Đào Lệ Hằng
Hội Bảo vệ TN&MT Việt Nam
Trong chăn nuôi gia cầm, ở quy mô nông hộ số hộ có xử lý chất thải chỉ đạt 15%, ở quy mô gia trại là 37,5%, quy mô trang trại là 35,71% còn lại là đổ thẳng trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý. Trong khi mức ô nhiễm nước thải chăn nuôi được xác định vượt giới hạn cho phép hàng trăm lần (ví dụ mức nhiễm Colifom vượt theo tăng dần theo quy mô nông hộ - gia trại – trang trại là 114,24 lần – 108,5 lần – 187,5 lần). Mặt khác hình thức xử lý chất thải tiên tiến hiện nay là công nghệ biogas chỉ được sử dụng ở mức rất thấp (5,0 – 3,57 – 12% /Tổng số hộ có xử lý chất thải, tương ứng với 3 loại quy mô). Hàm lượng các khí độc tại khu vực có chăn nuôi được xác định gấp 11,2 – 15 lần giới hạn cho phép và tăng dần ở quy mô lớn. Độ nhiễm khuẩn không khí cũng cao dần theo quy mô và vượt giới hạn từ 19,72 lần đến 25,2 lần.
Trong chăn nuôi lợn, tỷ lệ có xử lý chất thải tương ứng với 3 quy mô chăn nuôi là 58,93%, 68,75%, 65,63%. Công nghệ Biogas đạt cao hơn các ngành chăn nuôi khác (xử lý chất thải rắn tương ứng với 3 quy mô là: 25 – 28,13 -43,75%). Hàm lượng các khí độc vượt giới hạn từ 4,7 – 17 lần. Độ nhiễm khuẩn không khí vượt giới hạn từ 18,67 – 39,06 lần. Các chỉ tiêu ô nhiễm nước thải cũng cao gấp hàng trăm lần so với quy định (coliform: 218,86 l- 287,46 - 630,43 lần).
Trong chăn nuôi bò, tỷ lệ có xử lý chất thải tương ứng với 3 quy mô chăn nuôi là 48,39%, 55,17%, 51,72%. Hàm lượng các khí độc vượt giới hạn từ 4,7 – 17 lần. Xử lý chất thải bằng công nghệ Biogas rất thấp (3,23 – 6,9 – 6,9%). Độ nhiễm khuẩn không khí vượt giới hạn từ 11 - 13lần. Các chỉ tiêu ô nhiễm nước thải cũng rất cao so với quy định (coliform: 78,1- 187,02- 155,8lần).
Ở cả 3 nghề chăn nuôi (gia cầm, lợn, bò) đều có đặc điểm chung là khu xử lý chất thải rất sát chuồng nuôi (65,62 – 100%/tổng sô cơ sở có xử lý chất thải).
Theo kết quả của đề tài (được điều tra điểm với quy mô toàn quốc) thì chăn nuôi đang thực sự là nguồn gây ô nhiễm rất lớn đến đất, nước và không khí của khu vực cộng đồng có hoạt động sản xuất chăn nuôi vì lượng chất thải đổ thẳng ra môi trường rất lớn mà chất thải chăn nuôi tuy dễ bị phân hủy nhưng cũng được xếp vào hạng mục chất thải nguy hại bởi khả năng lây lan dịch bệnh, chưa kể việc xử lý chất thải vốn đã chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng lại chủ yếu là ủ phân tươi, công nghệ Biogas chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong các nghề chăn nuôi chủ lực trên thì chăn nuôi lợn là nghề chăn nuôi gây ô nhiễm nhất.
Mức độ ô nhiễm gia tăng theo quy mô chăn nuôi, càng ở các quy mô có mức tập trung lớn (gia trại, trang trại) thì mức ô nhiễm càng lớn. Điều này cũng thể hiện sự bất cập của ngành chăn nuôi trong khi đã xác định định hướng phát triển theo hướng trang trại, công nghiệp hóa nhưng công tác bảo vệ môi trường trong ngành này lại gần như còn “bỏ ngỏ”!
Được biết hàng năm Cục Chăn nuôi cũng có vài chục tỷ vốn Ngân sách nhà nước ở sự nghiệp kinh tế nhưng không hiểu sao bên cạnh các công tác quản lý giống, thức ăn chăn nuôi được đầu tư và hoạt động khá sôi động thì công tác quản lý, chỉ đạo sản xuất để bảo vệ môi trường trong chăn nuôi vẫn leo lét dù thực tế đã rất bức thiết và các công bố của những đề tài về môi trường chăn nuôi càng ngày càng đưa ra những con số rất đáng lo ngại!