TS. Bùi Tâm Trung. Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban Kiểm tra Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đã từ trần ngày 3/2/2010, hưởng thọ 80 tuổi. Để tưởng nhơ, dưới đây chúng tôi xin đăng lại công trình nghiên cứu của Tiến sỹ . đã đăng trong cuốn “Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững - Tuyển tập các công trình kỷ niệm 20 năm của Hội”
|
TS. Bùi Tâm Trung trong một chuyến công tác của Hội
|
Xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian qua, nhiều ngành, nhiều địa phương đã tiến hành thực hiện thí điểm phương thức này, nhưng mỗi nơi làm theo một cách, chưa có một chương trình kế hoạch hành động chung, thiếu một sự thống nhất về nhận thức cũng như cách làm nên kết quả chẳng được mhư mong muốn. Việc triển khai thực hiện còn lúng túng, chưa tiến hành tổng kết kinh nghiệm, thiếu sự trao đổi giữa những đơn vị làm thí điểm nên cũng chưa rút ra được kết luận cần thiết khi thực hiện việc xã hội hoá nên nhiều nơi khi gặp vướng mắc thường không thể tiếp tục tiến hành đến nơi đến chốn. Bài viết này nhằm góp phần vào việc nghiên cứu để có thể thực hiện chủ trương này một cách có hiệu quả hơn.
1. Khái niệm về xã hội hoá bảo vệ môi trường và cơ sở pháp lý
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, Nhà nước đặt kế hoạch chăm lo, cáng đáng mọi việc, từ sản xuất đến tiêu dùng. Từ khi nước ta thực hiện chính sách mở cửa chuyển sang nền kinh tế thị trường thì ngoài vai trò Nhà nước còn có các nhân tố phi nhà nước, tức vai trò của thị trường và cộng đồng. Nhiều việc không thể chỉ hoàn toàn dựa vào nhà nước mà cần huy động thêm lực lượng cộng đồng về các mặt lao động, kiến thức, của cải... Vì thế mà Nhà nước đã có một số chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong việc phát triển kết cấu hạ tầng, hoặc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và ban hành “ cơ chế phát huy dân chủ ở cơ sở xã, phường” nhằm huy động cộng đồng dân cư tích cực tham gia vào các hoạt động công ích để cải thiện môi trường sống tại địa phương.
Đất nước ta đang đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bắt đầu thời kỳ hội nhập với thế giới, đang đứng trước nhiều thách thức gay gắt, trong đó có vấn đề môi trường. Việc phát triển công nghiệp, kinh doanh dịch vụ lại càng đẩy nhanh quá trình đô thị hoá, đã gây áp lực ngày càng lớn lên tài nguyên và môi trường. Khi thực hiện nhiều mục tiêu chiến lược quốc gia, các nguồn lực nhà nước chủ yếu tập trung vào giải quyết những vấn đề ở cấp vĩ mô, khi triển khai đến cơ sở thì nhiều việc còn bất cập. Vì vậy thu hút sự tham gia của lực lượng cộng đồng , các thành phần kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân vào các hoạt động môi trường là một việc làm cần thiết. Một quan điểm đã được thế giới khẳng định là nếu không có sự tham gia của cộng đồng thì không có khả năng thực hiện được sự nghiệp bảo vệ môi trường.
Môi trường mang tính công hữu rõ rệt, là tài sán chung của mọi người. Môi trường tốt mọi người có quyền được hưởng, môi trường xấu đi thì mọi người đều có trách nhiệm cải thiện và bảo vệ. Huy động lực lượng cộng đồng tham gia BVMT là nói đến việc xã hội hoá trong công tác BVMT , làm cho hoạt động này mang tính xã hội, vì lợi ích chung của xã hội và được mọi người trong xã hội cùng tham gia .Khi các nhân tố thị trường và cộng đồng tham gia vào các hoạt động gìn giữ môi trường thì đó là xã hội hoá bảo vệ môi trường. Môi trường và các hoạt động về môi trường tự nó đã mang tính xã hội cao nên công tác BVMT được xã hội hoá là một việc làm phù hợp. Mặt khác,việc xã hội hoá cũng nhằm mục đích thực hiện chủ trương đổi mới trong các hoạt động kinh tế xã hội..
Thuật ngữ “ Xã hội hoá” trong bảo vệ môi trường hiện chưa có định nghiã về mặt pháp lý, nhưng qua một thời gian nghiên cứu và làm thí điểm một số địa phương, đã có một số cách hiểu xã hội hoá trong bảo vệ môi trường như : Đó là việc thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể và cộng đồng vào các hoạt động bảo vệ môi trường; đó là biến công tác BVMT thành nhận thức, hành động BVMT có sự tham gia của mọi người trong cộng đồng; đó là việc đem lại phúc lợi chung về môi trường cho mọi người và huy động mọi người tham gia bảo vệ và cải thiện môi trường một cách tích cực, chủ động, thường xuyên; đó là sự huy động các nhân tố thị trường và lực lượng cộng đồng tham gia vào các hoạt động BVMT, vào các hoạt động quản lý môi trường, vào việc ra quyết định liên quan đến BVMT của các cơ quan nhà nước,,, Cũng có ý kiến cho là xã hội hoá BVMT thực chất là tư nhân hoá công tác BVMT, huy động tất cả các lực lượng ngoài hệ thống tổ chức của nhà nước để tham gia công tác BVMT. ( nhưng ở đây nên hiểu xã hội hoá rộng hơn khái niệm tư nhân hoá, vì ngoài tư nhân còn thu hút sự tham gia của cộng đồng và các hợp tác xã)., vân vân....
Với một số cách hiểu như trên, chúng ta tạm thống nhất về nội dung của xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường là việc huy động lực lượng cộng đồng tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường, vào các hoạt động quản lý môi trường các cấp, vào việc ra quyết định liên quan đến bảo vệ môi trường của các cơ quan nhà nước. Thực hiện xã hội hoá BVMT nhằm mục đích biến chủ trương bảo vệ môi trường thành nghĩa vụ và quyền lợi của các tầng lớp xã hội, làm cho mọi người thấy được vai trò trách nhiệm của mình trong BVMT, tạo được chuyển biến trong nếp sống thân thiện với môi trường, tích cực và tự nguyện tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường
Thực hiện chủ trương xã hội hoá sẽ đem lại nhiều lợi ích như thu hút thêm được nguồn tài chính và nhân lực để phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là khâu cung ứng các dịch vụ hạ tầng. Việc này góp phần giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả đầu tư và vận hành kết cấu hạ tầng, hạn chế thất thoát trong đầu tư xây dựng và tệ nạn quan liêu tham nhũng, cải thiện được chất lượng dịch vụ, tạo thêm việc làm cho địa phương. Hơn nữa, điều quan trọng là giảm được tính ỷ lại, mọi việc chỉ trông chờ vào nhà nước, đồng thời tạo ra sự năng động xã hội trong BVMT. Mặt khác khi phát huy được dân chủ trong cộng đồng sẽ giúp cho việc hoạch định chính sách cũng như giúp người ra quyết định có sự cân nhắc kỹ, từ đó sẽ làm tăng tính đồng thuận của xã hội.
Chủ trương xã hội hoá trong bảo vệ môi trường được nêu rõ trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Luật Bảo vệ Môi trường đã khẳng đinh bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường. Thực hiện dân chủ cơ sở về bảo vệ môi trường, phải thông tin công khai để nhân dân biết tình hình môi trường, các biện pháp phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường và biện pháp khắc phục ô nhiễm, suy thoái tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ ở địa phương. Nghị quyết 41 NQ/TW của Bộ Chính Trị (ngày 15/11/2004) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đã nêu việc cần xác định rõ trách nhiệm BVMT của Nhà nước, cá nhân, tổ chức và cộng đồng , đặc biệt đề cao trách nhiệm của các cơ sở sản xuất dịch vụ; tạo cơ sở pháp lý và cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia công tác BVMT, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia các dịch vụ thu gom, tái sử dụng, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác về BVMT; xây dựng Qui ước, Hương ước, Cam kết về BVMT, các mô hình tự quản về môi trường của cộng đồng dân cư. Quyết định 34/2005 TTg đã yêu cầu cần thể chế hoá qui định về trách nhiệm , nghĩa vụ và quyền hạn của các tổ chức đoàn thể , cộng đồng dân cư, cá nhân tham gia, đặc biệt là trong quá trình xây dựng,ban hành và thực hiện các quyết định có liên quan về BVMT; đa dạng hoá các loại hình hoạt động BVMT, khuyến khích thực hiện các dịch vụ BVMT; xây dựng phong trào toàn dân tham gia BVMT, xây dựng thực hiện Hương ước,Qui ước , Cam kết BVMT. Nghị định 79/2003 NĐ/CP về ban hành qui chế thực hiện dân chủ ở xã, phường qui định những việc mà chính quyền cần thông báo cho dân biết, những việc dân cần bàn và cần kiểm tra, giám sát. Trong Chiến lược quốc gia về Bảo vệ môi trường (2001-2010) cũng đã nêu những điểm quan trọng : Việc thực hiện Chiến lược này đương nhiên đòi hỏi sự tham gia của cộng đồng, của doanh nghiệp và tư nhân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hoá BVMT bằng luật pháp, bằng các văn bản pháp lý để huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt động quản lý môi trường các cấp, vào việc ra quyết định liên quan của các cơ quan nhà nước; Nhà nước có chính sách về tư nhân hoá trong các dịch vụ môi trường.
Các văn bản trên đã nêu lên những nội dung cần thực hiện xã hội hoá BVMT, làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách về vấn đề này.
2. Vai trò của cộng đồng trong thực hiện xã hội hoá
Khi thực hiện chủ trương xã hội hoá BVMT ở nước ta, cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta có một số nhân tố thuận lợi như sau:
Về truyền thống dân tộc, văn hoá và truyền thống bản địa:
Dân tộc ta đã có truyền thống lâu đời về tinh thần cộng đồng, những kinh nghiệm của cha ông ta trong quá trình dựng nước và giữ nước, trong lịch sử nước ta đã chứng minh sự kết hợp và gắn bó giữa nước với dân. Nhờ đó mà đã tạo nên sức mạnh vĩ đại để đối phó với bao nguy nan khi đất nước trải qua những chặng đường khó khăn thách thức, thậm chí cả những nguy cơ trước tồn vong của dân tộc. Hội nghị Diên Hồng, Đại hội Tân Trào, ý chí “Toàn dân kháng chiến”, phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” v.v...chính là những điển hình về mặt chủ trương chiến lược mang tính xã hội hoá của các thời đại. Tinh thần đó đã được đúc kết trong lời dạy của Bác Hồ : “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Những nhóm cộng đồng từ xa xưa đến nay đều sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên tái sinh và hệ sinh thái để duy trì sự tồn tại của mình. Qua nhiều thế hệ, đã tích luỹ được nhiều kiến thức trong đấu tranh chống các hiểm hoạ thiên nhiên, có kinh nghiệm truyền thống trong việc bảo vệ tài nguyên, đất đai, rất quan tâm và biết cách sử dụng có hiệu quả nguồn đất đai, tài nguyên của mình, nên có khả năng đóng góp vào việc bảo vệ môi trường tài nguyên và phát triển bền vững..Vì vậy cộng đồng cần phải được tham gia vào những quyết định về phát triển liên quan đến họ. Mặt khác, các thành viên trong cộng đồng có mối liên hệ khá chặt chẽ, nhất là tại các khu vực nông thôn và vùng cao, luôn tôn trọng lẫn nhau, đặc biệt là đối với các bậc bô lão, già làng, những người hoạt động xã hội tích cực, đó là những người chủ chốt trong việc thực hiện xã hội hoá trong BVMT, nhất là khi xây dựng và thực hiện các “Hương ước”, “Qui ước” BVMT ở nông thôn hoặc miền núi
Vai trò tích cực của các thành viên trong cộng đồng .
Đó là vai trò của các Tổ chức chính trị xã hội, các Tổ chức phi chính phủ và tổ chữc xã hội nghề nghiệp. Chức năng và vai trò của các tổ chức chính trị xã hội trong cộng đồng rất rõ ràng, ở đây chỉ đề cập đến vai trò của các Tổ chức phi chính phủ. Đây là một tổ chức gồm những người tự nguyện hoạt động theo một mục tiêu phục vụ cho phát triển đất nước không vì mục đích lợi nhuận. Tổ chức này tập hợp được lực lượng chuyên ngành rất phong phú và đa dạng. Họ làm chiếc cầu nối giữa chính quyền với dân, chuyển những ý kiến của dân đến chính quyền và truyền đạt nhanh chóng các chủ trương chính sách của nhà nước đến tận người dân..Cũng chính lực lượng này đưa khoa học kỹ thuật vào quần chúng nhanh nhất. Vì vậy trong công tác xã hội hoá BVMT thì các tổ chức phi chính phủ là một chỗ dựa có hiệu quả trong việc thực hiện chủ trương này.
3. Nội dung thực hiện xã hội hoá bảo vệ môi trường
Căn cứ vào các văn bản của Đảng và nhà nước về công tác xã hội hoá BVMT, và với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, có thể diễn giải một số nội dung cần thực hiện sau đây :
Những điều dân cần được thông tin (dân biết):: Chính quyền cần thông tin kịp thời cho dân những vấn đề về môi trường như Hiện trạng môi trường ở địa phương; Các chính sách, luật pháp, qui định hành chính về bảo vệ môi trường; Chiến lược,qui hoạch phát triển kinh tế xã hội và các dự án đầu tư ở địa phương; Chương trình, dự án về đầu tư BVMT ở địa phương và qui hoạch, kế hoạch sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên ở địa phương; Sơ kết, tổng kết hoạt động BVMT ở địa phương qua các thời kỳ; Những vấn đề khác về BVMT và tài nguyên mà chính quyền thấy cần thông báo hoặc dân yêu cầu được thông báo..v.v...
Nhũng điều dân cần được tham gia bàn bạc (dân bàn) : Dân phải được tham gia ý kiến đối với một số vấn đề trước khi chính quyền ra quyết định như : Chủ trương, kế hoạch cụ thể về BVMT ở địa phương; Qui ước, Hương ước, Cam kết, Qui định BVMT ở địa phương; Dự thảo qui hoạch, kế hoạch BVMT dài hạn và hàng năm của địa phương; Dự thảo qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, dự án đầu tư và sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên khác của địa phương; Thành lập Tổ chức giám sát có sự tham gia của dân đối với việc thực hiện các công trình BVMT ở địa phương, nhất là các công trình có đóng góp tiền của công sức của dân; Tổ chức bảo vệ, duy tu, bảo dưỡng các công trình BVMT tại địa phương; Chủ trương, phương án đền bù giải phong mặt bằng theo yêu cầu BVMT’...
Việc tham gia của dân trong các hoạt động bảo vệ môi trường (dân làm) Tham gia từ việc nhỏ đến các công việc có qui mô lớn hơn, các phong trào tình nguyện rộng rãi thu hút mọi tầng lớp tham gia; Đóng góp trí tuệ, công sức, có lúc cả vật chất, tiền của trong BVMT; Tham gia vào một số dịch vụ cung ứng về BVMT; Tạo công luận, biểu thị thái độ ủng hộ hay phản đối các hành vi đối xử thân thiện với môi trường hoặc các hành vi vi phạm môi trường....
Những công việc dân cần được tham gia kiểm tra giám sát ( dân kiểm tra) :Giám sát việc thi hành pháp luật BVMT như :Việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, dự án BVMT; Việc thực hiện các qui định pháp chế, Hương ước, Qui ước, Cam kết về BVMT của cộng đồng; Việc duy tu bảo dưỡng các công trình về BVMT; Việc quản lý và sử dụng nhân, tài, vật lực về BVMT, nhất là những việc có sự đóng góp tiền của công sức của dân. Việc giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố tụng về BVMT ở địa phương...
Những nội dung trên là những việc cần làm để thực hiện xã hội hoá trong các hoạt động bảo vệ môi trường mà người dân sẽ được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp về môi trường. Trong thời gian qua khi tiến hành công việc xã hội hoá BVMT tại một số nơi, thường chỉ chú trọng thực hiện được một mặt của vấn đề là người dân có trách nhiệm phải làm gì để tham gia bảo vệ môi truờng, mang tính chất thụ động, còn mặt khác là người dân được quyền làm gì để BVMT, mang tính năng động và chủ động, (người dân được quyền tham gia bàn bạc và được quyền kiểm tra ra sao) thì chưa được coi trọng và làm rõ. Nếu có làm thì cũng chỉ mang tính hình thức theo kiểu “ người dân được tham gia thông tin” nhằm để “hợp thức hoá về mặt pháp lý” nào đó mà thôi.
4. Một số hình thức tổ chức để thực hiện xã hội hoá BVMT
Việc tổ chức thực hiện xã hội hoá BVMT cũng là cách triển khai của hai loại vấn đề nêu trên. Do phạm vi hoạt động BVMT rất rộng nên ở đây chỉ nêu hai vấn đề trong hoạt động BVMT mà lâu nay chúng ta chưa quan tâm và chưa được làm rõ. Đó là việc cộng đồng tham gia các dịch vụ cung ứng BVMT và việc thực hiện quyền dân chủ của dân trong hoạt động BVMT.
Việc cộng đồng tham gia các dịch vụ bảo vệ môi trường.
Ở đây xin nêu một vài cách làm nhằm thu hút người dân tham gia vào các dịch vụ. Đây là một việc làm còn tương đối mới, nhiều nơi cũng đang còn làm thí điểm, chưa có mấy kinh nghiệm. Ngay trong các dịch vụ môi trường cũng khá nhiều khâu, ở đây chỉ đề cập đến việc cộng đồng tham gia vào khâu cung ứng dịch vụ hạ tầng . Qua các mô hình thí điểm tại một số địa phương, đã rút ra một số hình thức tổ chức sau :
Theo chiều dọc: Cắt chu trình công nghệ sản xuất, dịch vụ thành từng công đoạn, chọn công đoạn thích hợp để thực hiện xã hội hoá (ví dụ trong rác thải có các công đoạn thu gom, vận chuyển ,xử lý ).
Theo chiều ngang: Chia khu vực theo địa bàn và chọn khu vực để thực hiện. (Ví dụ chọn trong các khu dân cư, khu công nghiệp, du lịch , khu bảo tồn hoặc khu vực thị trấn ngoại thành...)
Theo dạng hỗn hợp: Kết hợp chiều ngang và chiều dọc. (ví dụ vấn đề rác thải tại các chợ chẳng hạn, việc thu gom thì thực hiện xã hội hoá, còn việc vận chuyển hay xử lý thì do Công ty dịch vụ nhà nước đảm nhiệm).
Khi chọn các công việc thực hiện, có thể theo một số dạng công trình như sau:
Dạng thứ nhất : Sở hữu công, vận hành tư: Trường hợp này thì công trình do Nhà nước xây dựng, còn việc vận hành thì tiến hành tổ chức đấu thầu để thực hiện xã hội hoá. Ví dụ như đối với nhà máy hoặc trạm xử lý rác thải, nước thải.
Dạng thứ hai : Sở hữu tư, vận hành tư: Thông qua đấu thầu để chọn nhà đầu tư xây dựng và sau đó lại tiếp tục vận hành theo dạng BOT. Ví dụ như Trạm rửa xe ở đầu các cửa ngõ thành phố , hoặc nhà Vệ sinh công cộng...
Dạng thứ ba : Sở hữu hỗn hợp, vận hành hỗn hợp: Trường hợp này thuộc loại công trình sở hữu công đã được cổ phần hoá trở thành sở hữu hỗn hợp và việc tổ chức vận hành cũng theo dạng hỗn hợp.
Dạng thứ tư : Cộng đồng sở hữu và vận hành: Dạng này thích hợp đối với các phạm vi có qui mô nhỏ như trong các khu dân cư nghèo hoặc tại các làng xã ven đô.. Ví dụ cộng đồng dân cư tự tổ chức đầu tư xây dựng Nhà Vệ sinh công cộng hoặc một đoạn đường, đoạn mương thoát nước trong khu vực mình ở rồi cũng do cộng đồng tự tổ chức quản lý.
Việc thực hiện quyền dân chủ của dân trong Bảo vệ môi trường
Đây không phải là điều gì mới, nhưng chúng ta lại chưa quan tâm để tổ chức thực hiện. Hiện nay mới chỉ dừng lại ở khung luật pháp chung chung mà cần phải được qui định một cách cụ thể. Các dự án có liên quan đến môi trường sống của dân như qui hoạch lãnh thổ của thành phố, các khu đô thị, xây dựng các khu công nghiệp, nhà máy, tuyến đường giao thông, hoặc các dự án ngăn chặn, phòng chống ô nhiễm, cải thiện môi trường v.v...thì người dân phải được quyền đóng góp ý kiến. Việc đóng góp ý kiến, có thể là người dân trực tiếp tham gia, cũng có thể là người đại diện cho quyền lợi của dân tham gia như việc Đánh giá tác động môi trường của dự án chẳng hạn (do hạn chế về hiểu biết trong lĩnh vực chuyên môn). Cộng đồng dân cư là đối tượng chịu tác động của môi trường trực tiếp nhất nên là những người quan tâm đến diễn biến môi trường hàng ngày nhiều nhất. Kinh nghiệm cho thấy, nơi nào mà người dân quan tâm đến môi trường thì nơi đó ít xảy ra các vi phạm về môi trường. Thực hiện được việc lấy ý kiến đóng góp của dân rất có lợi, vì cơ quan quản lý sẽ biết được suy nghĩ của dân, nắm được tâm tư nguyện vọng của họ để tìm ra các giải pháp hợp lý hơn để có thể gắn kết được nhà quản lý với cộng đồng.
5. Một số dạng mô hình xã hội hoá BVMT đã được thực hiện ở một số địa phương
Nhiều địa phương đang quan tâm đến công tác xã hội hoá BVMT, đã tiến hành thử nghiệm một số dạng mô hình. Mô hình mà cộng đồng tham gia thường gồm một số dạng chủ yếu sau : Mô hình cung ứng dịch vụ môi trường, chủ yếu là trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Hiện rất nhiều tỉnh, thành đang thực hiện như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà Nẵng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Huế...Hình thức tổ chức hoạt động chủ yếu theo ba dạng :Tổ thu gom rác dân lập, Hợp tác xã. Công ty cổ phần hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn. Tổ thu gom rác dân lập phù hợp với qui mô nhỏ , cần có sự hỗ trợ ban đầu của chính quyền địa phương và có sự quản lý của chính quyền đó. Hợp tác xã thường hoạt động trên địa bàn một phường hoặc một cụm dân cư, làng xã có phạm vi không lớn. Công ty cổ phần (hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn) hoạt động theo luật doanh nghiệp , tự tổ chức hoạt động và kinh doanh, thu hút vốn đầu tư từ cộng đồng. Dạng này phù hợp với các đô thị lớn. Mô hình cộng đồng cam kết bảo vệ môi trường mà Hương ước, Qui ước là một trong các công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính tự quản tại cộng đồng dân cư ở cơ sở. Tại nhiều địa phương, Hương ước, Qui ước không những góp phần vào việc phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo lý và đạo đức truyền thông của dân tộc mà còn là công cụ đắc lực trong việc vận động duy trì an ninh trật tự, vệ sinh môi trường ,phòng chống tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, giải quyết các tranh chấp thường ngày trong nhân dân, xoá đói giảm nghèo... Một số điển hình như Hương ước BVMT làng Chiết Bi tinh Thừa Thiên-Huế hoặc tại một số làng, xã, buôn, bản ở một số tỉnh như Bắc Giang,Lai Châu, Hà Nam, Long An, Đắc Lắc,Yên Báy, Hoà Bình, Nghệ An, Thanh hoá, Hải Dương v.v....Mô hình tổ chức tự quản và các phong trào tự nguyện mà điển hình như HTX Hiệp hoà (Bắc giang), xã Thạch Kim (Hà Tĩnh), một số phường, thị trấn ở các tỉnh Quảng Ninh, Hà Nội, Hà Tĩnh, Lạng Sơn, Hà Tây... Các tổ tự quản xử lý ô nhiễm môi trường được xây dựng trên nhu cầu thực tiễn của cộng đồng không những góp phần giữ gìn vệ sinh môi trường mà còn tạo thêm công việc làm cho một số người dân địa phương..Các phong trào tình nguyện như “Mùa hè tình nguyện” của thanh niên sinh viên thành phố Hồ Chí Minh, “Đội tình nguyện Xanh” thành phố Huế, “đội Thanh niên tình nguyện” huyện Tiểu Cần Trà Vinh, Bảo tàng Chim ở xã Đại An Trà Vinh, đảo Cò xã Chi Lăng Nam Hải Dương đến những người tình nguyện thầm lặng như Mẹ Nghèng mấy chục năm cặm cụi trồng cây ở Quảng Bình, bà Vũ thị Khiêm với vườn cò ở Lập Thạch Phú Thọ, ông Đặng Đình Quyển ở vườn cò Đào Mỹ Bắc Giang và nhiều tấm gương khác...Các phong trào tình nguyện thường thu hút nhiều người tham gia, dễ được mọi người tich cực hưởng ứng, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc hàng ngày đem lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng. Mô hình lồng ghép xoá đói giảm nghèo với BVMT và sinh thái như các làng sinh thái ở Quảng Bình, Ba Vì, Hải Dương, Hà Tĩnh,Thái Nguyên cũng như một số xã ở các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Nam, Cần thơ, Hà Tây, Thừa Thiên-Huế,.cũng như các mô hình “Làng năng suất xanh” của Trung tâm Năng suất Việt nam. Các mô hình này luôn được người dân đón nhận vì vừa mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt lại đồng thời BVMT, hướng tới sự phát triển bền vững. Mô hình BVMT trong sản xuất công nghiệp cũng đang được chú ý và đã hình thành những mô hình tốt gắn sản xuất với BVMT như các mô hình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng luợng, nguyên vật liệu, BVMT như các Công ty Chiánghin VietNam, Thuốc sát trùng Viêt nam, Phân lân nung chảy Văn Điển, hoặc công ty Xăng dầu Hà Tĩnh, Công ty Sam Yang Việt Nam..
6. Vài suy nghĩ và kiến nghị trong việc thực hiện xã hội hoá BVMT
Qua việc nghiên cứu và thực hiện một số đề tài trên địa bàn thủ đô Hà Nội, đồng thời tìm hiểu một số kinh nghiệm việc thực hiện thí điểm mô hình ở các địa phương khác, tham khảo ý kiến của một số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này, đã cho thấy việc thực hịên xã hội hoá trong BVMT đã nổi lên một số vấn đề sau :
Một là, công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao hiểu biết của người dân về các chủ trưong, chính sách, luật pháp và các biện pháp BVMT, nâng cao năng lực hoạt động vì môi trường cho các tổ chức quần chúng và các tổ chức phi chính phủ để họ tham gia hỗ trợ các hoạt động BVMT của địa phương là nền tảng của sự thành công trong việc thực hiện xã hội hoá BVMT. Cần cung cấp thông tin cho cộng đồng những vấn đề cần thiết, trao đổi thông tin kinh nghiệm hoạt động của các cộng đồng địa phương trong lĩnh vực được xã hội hoá. Khi người dân đã có thông tin và nhận thức được nghĩa vụ và quyền lợi của họ khi tham gia, thì việc tham gia của cộng đồng mới đạt được hiệu quả. Nội dung tuyên truyền giáo dục phải thiết thực, không phải chỉ hô hào chung chung mà phải kết hợp tuyên truyền giáo dục với chương trình hành động để đem lại lợi ích cụ thể nào đó, từ đó mới nâng cao được tính tự nguyên của người dân.
Hai là. Khi thực hiện xã hội hoá, các hoạt động của cộng đồng phải gắn kết với chính quyền cơ sở và có sự phối hợp với cơ quan chức năng của Nhà nước. Cần có sự hỗ trợ của nhà nước về nguồn lực kỹ thuật và hệ thống luật pháp, qui định rõ trách nhiệm giữa chính quyền địa phương với cộng đồng. Hoạt động này cũng không thể thiếu được sư phối hợp với các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội và các tổ chưc phi chính phủ. Cần có sự kết hợp và phân công trách nhiệm trong công tác bảo vệ môi trường để cùng thực hiện mục tiêu chung, tránh sự chồng chéo và lãng phí.
Ba là, cần xây dựng được thể chế xã hội hoá trong bảo vệ môi trường. Nhiều cơ chế chính sách trong lĩnh vực này cần phải được bổ sung mà hiện nay mỗi nơi làm theo một cách, không được trao đổi kinh nghiệm nên kết quả rất hạn chế. Ví dụ chính sách sử dụng lao động, cơ chế tài chính, cơ chế giao thầu cho tổ chức, tư nhân tham gia thực hiện cung ứng các dịch vụ bảo vệ môi trường… Một số chủ trương, biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực môi trường như chính sách về sử dụng đất đai, tài chính, miễn giảm thuế, sự công bằng trong đối xử...Mặt quan trọng khác là phải có cơ chế để phát huy quyền dân chủ của người dân trong sự nghiệp BVMT chung của đất nước và của địa phương. Cần ban hành một cơ chế để cộng đồng có thể tham gia ý kiến vào việc xây dựng mục tiêu, chương trình kế hoạch bảo vệ môi trường và các dự án liên quan đến bảo vệ môi trường và tài nguyên sinh thái của cộng đồng ở địa phương. Vì vậy cần tăng quyền lực, tạo điều kiện và trao quyền tự chủ cho cộng đồng trong một số lĩnh vực cụ thể. Làm như vậy cũng chính là xây dựng quyền lực và khả năng của cộng đồng trong quản lý và giải quyết có hiệu quả những vấn đề về môi trường ở địa phương một cách có hiệu quả hơn.
Bốn là, việc thực hiện xã hội hoá trong bảo vệ môi trường không phải là phong trào có tính nhất thời, mà phải là một việc làm lâu dài. Do đó cần có một tổ chức (mềm) để điều hành công tác này ở cơ sở. Khi thực hiện, trước hết phải làm thí điểm ở một vài điểm dân cư, rút kinh nghiệm rồi mới mở ra trên diện rộng . Địa điểm chọn làm thử nghiệm nên có tính tượng trưng và đại diện. Khi đã có thể chế về xã hội hoá thì điều quan trọng là cần phải có năng lực thực thi thể chế. Tình hình vừa qua cho thấy nhiều mô hình thí điểm chỉ kéo dài được một thời gian mà không duy trì được lâu dài, vì vậy cần có những cán bộ thực thi, là những người biết nhận xét, phân tích các vấn đề về môi trường, từ đó có thể chọn lựa, đề xuất sắp xếp các vấn đề và tìm được ra các giải pháp tương ứng để giải quyết.
Năm là, phải bảo đảm sự công bằng. Đối xử công băng và bình đẳng với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tư nhân giống như với các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay điều đang diễn ra là tư nhân hoặc các doanh nghiệp tư nhân đang ở thế yếu hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Tránh xu hướng của một số cơ quan nhà nước là thấy những việc gì thuận lợi. “dễ ăn” thì giữ lại cho mình, còn việc gì thấy “khó nhá” thì đẩy cho cộng đồng hoặc tư nhân , mà đáng lý ra phải làm ngược lại, vì cơ quan nhà nước bao giờ cũng có điều kiện hơn.
Việc thực hiện xã hội hoá BVMT sẽ đem lại nhiều lợi ích và hiệu quả thiết thực, nhất là đối với nước ta đang trong giai đoạn mà khả năng còn nhiều mặt hạn chế, nhất là trong công tác BVMT. Chính vì lẽ đó mà trong nhiều Chỉ thị và Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về BVMT đều nhấn mạnh việc cần đẩy mạnh xã hội hoá trong công tác Bảo vệ môi trương. Vì vậy cần nghiên cứu các giải pháp thích hợp để thực hiện chủ trương này một cách hiệu quả nhất.
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết 41 NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị “về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
2. Nghị định 79/ 2003 NĐ/CP của Chính phủ về việc ban hành qui chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, phường;
3. Tổng kết các mô hình thí điểm về xã hội hoá BVMT tại Hà Nội do Hội BV Thiên nhiên Môi trường Thủ đô thực hiện và một số mô hình xã hội hoá công tác thu gom rác tại Hà Nội do Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội chủ trì.
4. Kỷ yếu hội thảo về xã hội hoá BVMT tại Hà Nội (Hội BVTNMT Thủ đô)
5. Điều tra, tổng kết hoạt động xã hội hoá BVMT ở Việt Nam ( Hội BVTNMT Việt Nam- Nguyễn Ngọc Sinh chủ trì)
6. Một số bài của các Chuyên gia viết về xã hội hoá BVMT: Nguyễn văn Trương, Nguyễn Viết Phổ, Lê Quí An, Lê Thạc Cán, Phạm Sĩ Liêm, Phạm Ngọc Đăng, Lê Văn Khoa...