Thiền học và Bảo vệ Môi trường - Kỳ 3: Chim và người. Thảo luận.
Simuong là một trong những ngôi chùa có tầm quan trọng về văn hóa và lịch sử vào bậc nhất và cũng là ngôi chùa cổ nhất ở Vientinane.
Con vạc ở chùa Simuong, Vientiane Lào
Ảnh con vạc do Đoàn du lịch-khảo sát của VACNE chụp ngày 30/4/2010
Simuong là một trong những ngôi chùa có tầm quan trọng về văn hóa và lịch sử vào bậc nhất và cũng là ngôi chùa cổ nhất ở Vientinane. Chùa được dựng vào khoảng thế kỷXII – XIII và được trùng tu vào thế kỷ XVI. Những bà mẹ trẻ có bầu lần đầu (sinh con so) đều cố đến đây làm lễ để cầu được sinh nở mẹ tròn con vuông. Ngôi chùa tọa lạc ở ngã tư các con phố Sethathirat và Samsenethai tại nơi ngày nay vẫn được người Lào theo truyền thống gọi là “bản” Simuong thuộc quận Sisattanak,Thủ đô Vientiane,Lào. Trong chùa, các bức tranh Phật hiện diện khắp nơi. Ngày nào cũng gặp người địa phương và du khách vào chùa lễ Phật với các đồ cúng là hoa, nến, quả dừa, chuối. Trước bệ thờ, có một bức tượng đá giống như một bào thai, sau khi lễ Phật, bà mẹ tương lai bế bức tượng lên một cách âu yếm, hôn một cách kính cẩn rồi mới đứng dậy ra về.
Theo tiếng Lào, muong có nghĩa là mẹ, Si là tên riêng của một người phụ nữ đã tự hiến sinh tại nơi sau này dựng chùa. Chùa Simuong có nghĩa là chùa Mẹ Si, còn được gọi tắt là chùa Mẹ.Truyền thuyết của Lào kể rằng vào thời gian Vientiane được khởi công xây dựng, khi viên đá móng đầu tiên được đặt, để cầu mong cho thành phố mãi trường tồn, dân địa phương đào một cái giếng, nguyện sẽ hiến tế thần linh một người và một con ngựa bạch. Sau khi thông tin chọn người tình nguyện hiến tế được ban ra, có một người phụ nữ đã mang thai 3 tháng tên là Si sống ở bản Xai ăn mặc đẹp đẽ đến nhìn xuống giếng 2 lần, lần thứ 3 bà nhẩy xuống giếng tình nguyện quyên sinh. Dân làng sau đó chôn xuống giếng thêm 1 con ngựa trắng. Bà Si được người địa phương gọi là mẹ Si. Giếng được lấp lại và tôn thành một ngọn tháp cao khoảng 10 m. Khu đất xung quanh sau này được xây một ngôi chùa thờ Phật – đó chính là chùa Simuong (7) .
Chuyện sẽ chỉ là cổ tích nếu chỉ có vậy. Nhưng điều kỳ lạ là trên 10 năm nay, có một con vạc đến đậu trên đỉnh ngọn tháp đá nơi bà Si yên nghỉ. Nó đứng yên như tượng. Nó ăn rất ít bằng những chú nhái kiếm được dưới chân ngọn tháp. Sau khi ăn, nó lại bước lên đỉnh tháp đứng yên bất động như tọa thiền. Những người đến lễ chùa rất thân thiện với con vạc này và rất tự hào vì nó. Ngày 30/4/2010 vừa qua khi đoàn tham quan của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đến viếng thăm chùa Simuong, con vạc vẫn đứng trên đỉnh tháp, thỉnh thoảng nghiêng mỏ như chào du khách.
Đảo cò Chi Lăng Nam, tỉnh Hải Dương
Vào khoảng thế kỷ XV vẫn chưa có đầm và đảo cò. Vùng Chi Lăng Nam là những cánh đồng trũng, ở giữa nổi lên một gò cao trên đó tọa lạc một ngôi chùa cổ. Một năm đê sông Luộc bị vỡ, nước xoáy tạo ra một đầm nước sâu đến vài chục met. Ngôi chùa chìm xuống đáy đầm. Hiện nay chỉ còn gặp phần cổng chùa với một cây đa cổ thụ, dưới gốc cây còn hai tấm bia đá cổ đã mòn hầu như không đọc được. Nhưng sau đó chim rải rác về. Khoảng chục năm trở lại chim về các hòn đảo trong đầm dày đặc. Ngày nay với diện tích hơn 3000m2, đảo cò được đón đến 15000 con cò, 5000 con vạc, ngoài ra còn chim chả, bói cá, quốc, cú mèo…tạo thành một sân chim rất nhiều loài. Đã kiểm kê được có đến 32 loài chim trong đó có 7 loài cò (cò trắng, cò bợ, cò diệc, cò lửa,cò nghênh ngang, cò ruồi,…) và 10 loài vạc (vạc xám, vạc sao, vạc lưng xanh,…). Chiều cò về thì vạc bay đi kiếm mồi, sáng vạc về thì cò lại bay đi.
Hiện nay đảo cò Chi Lăng Nam đã trở thành khu bảo tồn chim của tỉnh Hải Dương, nhưng lực lượng bảo vệ cò nhiều năm nay vẫn là người dân xã Chi Lăng Nam. Ông Nguyễn Thanh Tấn người địa phương nói rất tự hào: “ Đảo cò là điềm may của dân làng, từ khi cò về đông, trẻ nhỏ học hành tấn tới, người già ít đau ốm, nhà nào cũng ăn nên làm ra. Chúng tôi kiên quyết bảo vệ đảo cò”.Người Chi Lăng Nam nhân hậu. Họ yêu quý và tự hào vì đảo cò. Nhưng hình như đàn chim cũng rất yêu quý họ, chúng rất quen và rất dạn người.Không rõ người và chim có mối liên quan tâm linh gì không, nhưng chắc chắn chim rất thích những người nhân hậu như người dân Vientiane và Chi Lăng Nam.
Thảo luận
· Năm 1931, nhà toán học Godell đã công bố một định lí nổi tiếng là định lí Bất toàn, cho rằng trong các hệ thống chặt chẽ như hệ toán học cũng luôn luôn có những vấn đề không thể chứng minh hay bác bỏ được. Khoa học công nghệ chỉ thừa nhận những điều có thể chứng minh hay bác bỏ. Những thứ không chứng minh hay bác bỏ vẫn có đó, nhưng chỉ có thể cảm nhận được. Vì thế thực tại hiểu được nhỏ hơn thực tại “ngộ” hay cảm nhận được rất nhiều.
· Vấn đề là chúng ta phải quản lý, phải bảo vệ môi trường, tức là phải bảo vệ cái mà chỉ chứng minh hay bác bỏ được một phần nhỏ, cái mà không thể hiểu được thấu đáo dù khoa học công nghệ có thể cao siêu đến đâu.Dễ hiểu tại sao nếu chỉ bảo vệ môi trường bằng khoa học công nghệ thì không thể nào bảo vệ được. Cái gọi sự cảm nhận tinh tế của nhà quản lý, sử dụng các phong tục tập quán tốt, niềm tin của cộng đồng vào chân - thiện - mỹ, cái gọi là biến quản lý thành tự quản lý, cái gọi là đồng quản lý,…phải được bổ sung vào những quy định của nhà nước về công tác bảo vệ môi trường.
· Và muốn vậy, cộng đồng cần có quyền tiếp cận môi trường, có chức năng là chủ thể của môi trường chứ không chỉ là chức năng tham gia. Ý kiến cho rằng quyền tiếp cận môi trường cũng là một nội dung của quyền con người, rõ ràng có gốc rễ thâm sâu từ Thiền học, vốn là một bản sắc ngàn năm của văn hóa phương Đông, chứ không phải là sự đòi hỏi quá đáng cho con người./.
Chú thích:
1. Horioka, C. và S.W. Holmes. 2004. Thiền trong hội hoạ - Phương pháp tìm hiều nghệ thuật cảm nghiệm thơ Haiku và tranh Mặc hội. Thanh Châu dịch, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Đình Hoè, 2006. Tích hợp Thiền học và Tiếp cận hệ thống - cơ sở bảo vệ môi trường và phát triển bền vững khu vực Đông Á. Báo cáo tại Hội thảo Quốc tế "Hướng tới cộng đồng Đông Á - Thách thức và triển vọng". Viện Đông Bắc Á, Hà Nội, 14 - 16/09/2006.
3. Nguyễn Đăng Thục, 1997. Thiền học Việt Nam. Nxb Thuận Hoá
4. Suzuki, D.T. Thiền Luận. NXB TP HCM, 2005
6.Phạm Thị Ngọc Trâm. Thiền là gì? Nxb VHTT, Hà Nội, 2004