Cây Ba kích còn có tên là Dây ruột gà, Chẩu phóng xì, Sáy cáy (Thái), Thau tày cáy (Tày), Chày kiềng đòi (Dao). Tên khoa học là Morindaofficinalis How, họ Cà phê (Rubiaceae).
Đây là cây bụi trườn hoặc leo bằng thân quấn, dài đến 2m hoặc hơn, sống nhiều năm. Thân non có lông mềm, màu xanh hoặc nâu tím, sau nhẵn. Lá mọc đối, hình bầu dục hay hình mác hẹp, dài 6-14cm, rộng 2,5-6cm, cuống ngắn. Lá kèm mỏng, ôm sát vào thân. Cụm hoa là một tán giả ở đầu cành, dài 0,3-1,5cm. Hoa nhỏ, màu trắng sau hơi vàng; lá đài dính liền nhau thành hình chén; cánh hoa dính liền thành ống dài 3-4mm. Nhị 4 đính vào họng ống tràng. Bầu dưới. Quả đơn hình cầu, hay dính liền nhau (quả tụ), mang đài tồn tại ở đỉnh, khi chín màu đỏ cam. Hạt hơi dẹt, vỏ hạt có lông. Rễ hình trụ, mập, phân nhánh, có những chỗ thắt lại không đều như ruột gà (vì vậy mà có tên là dây Ruột gà); thịt rễ dày, màu tím hoặc trắng ngà. Mùa hoa: tháng 5-6, mùa quả: tháng 7-9.
Cây Ba kích mọc hoang trong rừng thưa, rừng thứ sinh, gặp ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc từ Quảng Ninh, Lạng Sơn, Yên Bái, Hòa Bình, đến vùng Cao nguyên ở phía Nam. Cây còn phân bố ở các tỉnh phía nam Trung Quốc, Lào.
Rễ ba kích được dùng làm thuốc, cóchứa các anthraglucosid, iridoidglucosid và các sterol như β-sitosterol, v.v…
Theo Đông y, Ba kích có tác dụng ôn thận, trợ dương, mạnh gân cốt. Dùng chữa dương suy, liệt dương, di tinh, làm mạnh gân cốt. Người có âm hư, hoả thịnh,đại tiện táo bón thì không được dùng. Liều 4-12g/ngày, dưới dạng thuốc sắc, cao lỏng, hoặc ngâm rượu.