quản lý tòa nhà

logo Tạp chí TNMT-VACNE Vì Môi trường Xanh Quốc gia 2024
HỘI THẢO KH

Sách "Bảo tồn ĐDSH dãy Trường Sơn" - Bài 8

Thứ Hai, 31/10/2011 | 02:48:00 PM

Vai trò của cây thuốc trong xoá đói giảm nghèo ở khu vực dãy Trường Sơn

 

IV. Vai trò của cây thuốc trong xoá đói giảm nghèo ở khu vực dãy Trường Sơn
IV.1. Đặt vấn đề
Miền núi nước ta, đặc biệt dãy Trường Sơn, nơi có nguồn tài nguyên di truyền rất phong phú và đa dạng (trong đó có tài nguyên cây thuốc). Ngoài các sinh vật hoang dã trong tự nhiên, còn có rất nhiều giống cây trồng, vật nuôi trong các cộng đồng dân cư địa phương. Đó là một nguồn tài nguyên rất quan trọng và cần thiết cho sự sinh tồn và phát triển của con người.
Thêm vào đó, dân tộc Việt Nam đã có lịch sử lâu dài. Để tồn tại và phát triển đến ngày nay, con người đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm (Tri thức bản địa) trong sử dụng nguồn tài nguyên này để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống, từ ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khoẻ và chữa bệnh, đến đấu tranh bảo vệ đất nước, vv.
Với nguồn tài nguyên cây thuốc đa dạng và phong phú, có nhiều loài quý hiếm; với kinh nghiệm chữa bệnh gia truyền của cộng đồng 54 dân tộc anh em, chúng ta phải vận dụng ưu thế đó một cách có hiệu quả trong việc chăm sóc sức khoẻ cho người dân, góp phần vào việc tăng thu nhập, nâng cao đời sống và từng bước xoá đói giảm nghèo cho người dân, nhất là cộng đồng các dân tộc sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi mà cuộc sống của họ đang gặp nhiều khó khăn.
IV.2. Sơ lược về nguồn tài nguyên cây thuốc ở dãy Trường Sơn
Với một hệ thực vật đa dạng, thành phần các loài cây thuốc cũng rất phong phú và đa dạng. Chúng phân bố tập trung chủ yếu ở các trung tâm đa dạng sinh vật, trong đó có khu vực dãy Trường Sơn. Cho đến nay, chúng ta chưa có danh sách đầy đủ về số loài, sự phân bố và trữ lượng của cây thuốc ở khu vực rộng lớn này. Các số liệu điều tra thực vật suốt thời gian qua còn nằm rải rác trong hồ sơ của các cơ quan nghiên cứu, các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn tự nhiên. Điều này gây khó khăn cho việc đánh giá toàn diện giá trị của cây thuốc trong khu vực dãy Trường Sơn, để phục vụ cho việc bảo tồn, khai thác bền vững và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá này.
Theo kết quả điều tra của Viện dược liệu trong thời gian 2002-2005, số loài cây thuốc ở một số vùng núi trọng điểm thuộc các tỉnh gắn với dãy Trường Sơn như sau: Đắc Lắk (751 loài), Gia Lai (783 loài), Kon Tum (841 loài), Lâm Đồng (756 loài). Gần đây, Hội Đông y huyện M’Đrắc (tỉnh Đắc Lắk), đã phát hiện tại vùng rừng núi của các xã Ea M’Đoan, Ea Mlay, Krông Á và Ea Trang có khá nhiều loại cây thuốc phân bố khá tập trung như thạch xương bồ (Acorus gramineus), thổ phục linh (Smilax glabra), kim ngân (Lonicera spp.), hoàng đằng (Fibraurea recisa), cốt toái bổ (Drynaria fortunei), củ bình vôi (Stephania spp.), cẩu tích (Cibotium barometz), riềng rừng (Alpinia sp.), thiên niên kiện (Homalomena occulta), vv. Ở khu vực Chư Yang Sin (huyện Krông Bông và Lắc), người ta cũng đã phát hiện một số loài cây thuốc như kê huyết đằng, nhân trần (Adenosma caeruleum), ngũ gia bì chân chim (Schefflera spp.), sa nhân (Amomum villosum), đảng sâm (Codonopsis javanica), ba gạc hoa đỏ (Rauvolfia serpentina) và đặc biệt cây ngũ vị tử Ngọc Linh (Schisandra sphenanthera). Trong đó, một số loài có trữ lượng khá lớn (nhân trần).
Nhìn chung, cây thuốc ở Trường Sơn tuy nhiều về số loài, nhưng phân bố rải rác, và đa số có trữ lượng ít. Trước đây, những cây thuốc được khai thác với khối lượng nhỏ để sử dụng tại chỗ thì không ảnh hưởng đến sự tái sinh và phát triển bình thường. Nhưng ngày nay, do nhu cầu của thị trường, nhiều cây thuốc tuy có trữ lượng lớn, nhưng khi đã khai thác trên quy mô lớn, theo kiểu tận thu, mà lại không có kế hoạch bảo tồn, thì bị cạn kiệt nhanh chóng. Một ví dụ về cây vàng đắng, còn gọi là vàng giang, loong t'rơn, kơ trơng (Coscinium fenestratum (Gaertn.) Colebr.), thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Cây này mọc từ Thừa Thiên-Huế, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Ðồng và các tỉnh phía Nam nước ta. Sau năm 1975, nó còn trữ lượng khá lớn ở vùng núi Trà My (Quảng Nam) và dọc đường Đông Trường Sơn, nhưng nay đã cạn kiệt, không còn khai thác được nữa.
Cây Vàng đắng. Đây là một loại dây leo to, thân gỗ, dài tới 10-15m, đường kính 4-7cm, gỗ màu vàng. Vỏ thân nứt nẻ, màu xám trắng; cành non, mặt dưới lá, cụm hoa và quả có lông màu trắng bạc. Lá mọc so le, hình trứng, phiến dài 12-25cm, rộng 5-16cm, gân gốc 5; cuống lá dài 4-14cm, phình và cong ở gốc, hơi đính vào trong phiến lá. Cụm hoa là chùm xim trên thân già, dài 2-4cm. Hoa nhỏ, đơn tính, bao hoa có 6 phiến, hoa đực có 6 nhị; hoa cái có nhị lép, bầu có 3 lá noãn, có lông. Quả hạch hình cầu, đường kính 2-2,5cm. Mùa hoa, quả: tháng 1-5.Thân và rễ cây Vàng đắng chứa các alcaloid, chủ yếu là berberin 1,5-3%, palmatin, jatrorhizin, vv. và một số chất khác như saponin, acid hữu cơ, sitosterol. Chất berberin được các công ty Dược dùng để sản xuất viên Berberin chlorid (trị bệnh tiêu chảy, hội chứng lỵ, và một số bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hóa) và còn xuất khẩu.                                    
Ví dụ thứ hai là cây sâm Việt Nam (Panax vietnamensis Ha et Grushv.), thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae). Đó là một cây thuốc nổi tiếng, một loài đặc hữu hẹp của Việt Nam, được đoàn điều tra dược liệu K5 phát hiện ngày 18 tháng 3 năm 1973 ở núi Ngọc Linh, thuộc 2 huyện Đăk Glei (Kon Tum) và Trà My (Quảng Nam), trên độ cao từ 1500-2100m. Vì vậy mà nó còn có tên là sâm Ngọc Linh, hoặc sâm Khu Năm. Gần đây, cây sâm này còn được phát hiện ở núi Ngọc Lum Heo (thuộc Phước Sơn, Quảng Nam). Nó mọc thành từng đám dưới tán rừng hỗn giao có độ che phủ cao, ít dốc, dọc theo các suối ẩm, trên đất nhiều mùn. 
Sâm Việt Nam là cây thảo, sống nhiều năm, cao 40-60cm. Thân rễ nạc, đường kính 1-3,5cm, dài 30-40cm, có thể hơn, có nhiều đốt, mang những vết sẹo do thân khí sinh rụng hằng năm để lại; trên thân rễ có nhiều rễ phụ, ở phần cuối đôi khi có rễ củ hình cầu. Thân khí sinh mảnh, mọc thẳng đứng, ngọn thân mang 2-4 lá kép hình chân vịt mọc vòng; mỗi lá kép có 5 lá chét hình trứng ngược, hình mác hay bầu dục, mép khía răng cưa, dài 10-15cm, rộng 3,5cm, chóp nhọn, có khi kéo dài thành mũi nhọn, gốc hình nêm, có lông ở cả hai mặt, gân phụ 10 cặp hình lông chim, lá chét giữa lớn hơn. Cuống lá chét dài 6-12mm. Cụm hoa là một tán đơn ở ngọn thân, trên cuống dài 10-20cm, đôi khi có thêm 1-4 tán phụ ở dưới tán chính; mỗi tán có 50-120 hoa, cuống hoa dài 1-1,5cm; lá đài 5, hợp ở dưới thành hình chuông, cánh hoa 5, màu vàng lục nhạt; nhị 5; bầu trên 1 ô. Quả nang, khi chín màu đỏ tươi, thường có chấm đen ở đỉnh. Hạt 1-2, hình thận, màu trắng hay vàng nhạt. Mùa hoa: tháng 4-6, quả: tháng 7-9.
Thân rễ và rễ củ Sâm Việt Nam chứa 49 hợp chất saponin, gồm 25 chất đã biết (thường thấy trong các loại Sâm Triều Tiên, Sâm Nhật, Sâm Mỹ) và 24 chất có cấu trúc mới, đặt tên là vina-ginsenosid-R1 đến R24. Các saponin trên thuộc các nhóm dẫn chất 20(S)-protopanaxadiol; 20(S)-protopanaxatriol; các saponin có cấu trúc ocotillol và dẫn chất của acid oleanolic. Các hợp chất polyacetylen như panaxynol; hợp chất sterol như β-sitosterol, daucosterin. Lá chứa 19 saponin dammaran, trong đó có 11 chất đã biết và 8 chất mới, đặt tên là vina-ginsenosid-L1 đến L8. Ngoài ra, trong Sâm Việt Nam còn có 14 loại acid béo, các chất chính là acid palmitic, stearic, oleic, linoleic, linolenic; 16 acid amin tự do chủ yếu arginin, lysin, tryptophan, glycin, prolin, … và nhiều nguyên tố vi lượng như K, Ca, Mg, Fe, Sr, Ti, Rb, Mn và Zn.
Sâm Việt Nam có vị đắng, hơi ngọt, mùi thơm nhẹ; có tác dụng tăng lực, trị tăng trí nhớ, giúp phục hồi cơ thể, làm tăng sinh lực, chống lại sự mệt mỏi, suy nhược, kích thích hệ miễn dịch, tăng sự thích nghi của cơ thể trước những điều kiện bất lợi của môi trường, có tác dụng bảo vệ tế bào gan và giải độc gan, giúp hồi phục hồng cầu, bạch cầu bị giảm; tăng nội tiết tố sinh dục, điều hoà tim mạch; giảm đường huyết, hạ cholesterol máu, chống xơ vữa động mạch, chống oxy hóa và chống lão hóa, chống viêm, kháng khuẩn, Cũng có thể dùng làm thuốc trị viêm họng, giảm ho. 
Trước khi được phát hiện, các dân tộc trong khu vực núi Ngọc Linh cũng không biết giá trị của cây này. Người Sê Đăng coi là cây thuốc giấu (giữ bí mật), chỉ những già làng mới biết dùng để chữa bệnh và dùng khi leo núi dài ngày. Trong những năm chiến tranh 1973-75, Ban dân y Liên khu 5 đã sử dụng cây này để làm thuốc bổ và chữa bệnh cho cán bộ, thương bệnh binh ở chiến trường.
Sau năm 1975, khi cây sâm này được nghiên cứu, xác định tên khoa học, thành phần hóa học và chứng minh giá trị sử dụng của nó trong chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh thì nó bị khai thác ồ ạt theo kiểu tận thu, một phần để dùng, nhưng chủ yếu để bán, dẫn đến tình trạng cạn kiệt nhanh chóng.
Trước thực trạng đó, từ nhiều năm qua, Nhà nước đã và đang đầu tư kinh phí cho một số dự án bảo tồn và phát triển nguồn gen cây sâm quý này, tiến tới trồng trên quy mô lớn, tạo nguồn nguyên liệu cho các sản phẩm từ sâm Việt Nam. So với nhân sâm Triều Tiên (Panax ginseng), sâm Nhật (P. japonicus), và sâm Mỹ (P. quinquefolius) thì sâm Việt Nam có nhiều hoạt chất quý hơn, được đánh giá cao hơn, mặc dù rất đắt (do khan hiếm), nhưng không có để mua. Giá hiện nay khoảng 40-50 triệu đ/Kg, trong khi nhân sâm chỉ khoảng trên 1 triệu đ/Kg. Trên thị trường, bước đầu đã có các chế phẩm như ‘Viên ngậm Sâm Việt Nam’, ‘Vinapanax viên’ và ‘Sâm qui dưỡng lực’ (gồm sâm Việt Nam và một số dược liệu khác).

 
 
Ảnh II.5. Cây Vàng đắng và cây sâm Việt Nam
Như trên đã nói, bệnh tật và đau yếu thường đi kèm với đói và nghèo. Cây thuốc, ngoài giá trị trực tiếp như một nguồn lợi kinh tế, góp phần xoá đói giảm nghèo, nó còn có tác động gián tiếp là dùng để chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ, giúp con người có cơ thể khoẻ mạnh để lao động, để tạo ra của cải vật chất, làm tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống. Có sức khoẻ là có tất cả. Đây mới là biện pháp nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo một cách bền vững.
Hiện nay, ở Việt Nam đang có một nghịch lý là các vùng dân tộc thiểu số ở miền núi nói chung, đặc biệt dãy Trường Sơn nói riêng, nơi rất giầu nguồn tài nguyên thiên nhiên và tri thức bản địa thì lại nghèo hơn so với miền xuôi. Vì nghèo nên lạc hậu, và vì lạc hậu nên lại nghèo! Đây là mối tương tác ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu ta biết sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, khai thác thế mạnh của miền núi, vận dụng khoa học kỹ thuật để bắt nguồn tài nguyên hoang dã sinh ra của cải vật chất, biết canh tác hợp lý, trong đó có việc trồng cây thuốc thành hàng hoá, thì chắc chắn những sản phẩm này không chỉ góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta, mà nó còn làm cho con người có cuộc sống tươi đẹp và hạnh phúc hơn.
 

Lượt xem: 4139

Các tin khác

Tri thức bản địa và sinh kế cộng đồng nhìn từ nguồn gen

(02/06/2014 01:59:PM)

Dãy Trường Sơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu

(28/05/2014 11:49:AM)

Bảo tồn sự đa dạng văn hóa-sinh học của các dân tộc trên dãy Trường Sơn

(23/05/2014 10:48:AM)

Có nên phát triển vùng trồng ba kích Tây Giang?

(22/05/2014 05:29:AM)

Mời dự Hội thảo khoa học về sản xuất sạch hơn

(28/03/2014 03:30:PM)

Thăm vùng thảm họa động đất – sóng thần ở Nhật Bản: Cuộc sống đã phục hồi (Phần cuối)

(22/03/2014 09:28:AM)

Thăm vùng thảm họa động đất – sóng thần ở Nhật Bản: Cuộc sống đã phục hồi (Phần 1)

(20/03/2014 08:56:PM)

Một số vấn đề trong nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường ở các quốc gia Đông Bắc Á và khuyến nghị (Phần cuối)

(01/03/2014 03:29:PM)

Một số vấn đề trong nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường ở các quốc gia Đông Bắc Á và khuyến nghị (Phần 2)

(27/02/2014 09:00:PM)

VIDEO

Tự hào 35 năm VACNE

Xem thêm

TRANG VÀNG MÔI TRƯỜNG VACNE