Cũng theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng diện tích rừng của dãy Trường Sơn chiếm hơn một nửa diện tích rừng của Việt Nam. Tỷ lệ che phủ rừng cũng lớn nhất Việt Nam (tỷ lệ độ che phủ tính trung bình của các tỉnh trên dãy Trường Sơn) là 47,53% cao hơn nhiều so với cả nước 39,1%; đồng thời cao hơn 2 khu vực có độ che phủ rừng lớn là Tây Bắc (41,80%) và Đông Bắc (43,98%). Bên cạnh đó con số các tỉnh, thành phố có độ che phủ rừng trên 60% là rất ít cả nước có 4 tỉnh thì trong đó có 3 tỉnh thuộc dãy Trường Sơn là Kon Tum 66,7%, Quảng Bình 66,6%, và Lâm Đồng 61,0% (Bảng I.1).
Đơn vị tính: ha
TT
|
Tên tỉnh. TP
|
Diện tích có rừng
|
Diện tích rừng để tính độ che phủ
|
Độ che phủ rừng (%)
|
Tổng số
|
Rừng tự nhiên
|
Rừng trồng
|
Tổng
|
Cấp tuổi 1
|
|
-3
|
(4) = (5)+(6)
|
-5
|
-6
|
-7
|
(8) =(4)-(7)
|
-9
|
|
Dãy Trường Sơn
|
7.517.228
|
6.235.674
|
1.281.568
|
155.242
|
7.361.986
|
47,53
|
1
|
Thanh Hoá
|
534.720
|
386.381
|
148.340
|
14.744
|
519.976
|
46,7
|
2
|
Nghệ An
|
854.259
|
717.946
|
136.314
|
13.955
|
840.304
|
51
|
3
|
Hà Tĩnh
|
312.111
|
210.158
|
101.954
|
16.046
|
296.065
|
49,1
|
4
|
Quảng Bình
|
548.679
|
457.098
|
91.582
|
11.972
|
536.707
|
66,6
|
5
|
Quảng Trị
|
220.797
|
134.978
|
85.820
|
3.839
|
216.958
|
45,7
|
6
|
T.Thiên Huế
|
294.298
|
203.515
|
90.783
|
9.709
|
284.589
|
56,2
|
7
|
TP Đà nẵng
|
46.963
|
36.462
|
10.501
|
5.400
|
41.563
|
33,1
|
8
|
Quảng Nam
|
465.432
|
386.897
|
78.535
|
12.877
|
452.555
|
43,5
|
9
|
Quảng Ngãi
|
234.798
|
104.523
|
130.276
|
20.060
|
214.738
|
41,7
|
10
|
Bình Định
|
271.982
|
194.796
|
77.187
|
8.600
|
263.382
|
43,6
|
11
|
Phú Yên
|
173.563
|
126.061
|
47.503
|
2.636
|
170.927
|
33,8
|
12
|
Khánh Hoà
|
202.587
|
166.468
|
36.120
|
1.042
|
201.545
|
42,7
|
13
|
Ninh Thuận
|
147.906
|
140.951
|
6.956
|
1.278
|
146.628
|
43,7
|
14
|
Bình Thuận
|
283.940
|
253.694
|
30.246
|
3.639
|
280.301
|
35,8
|
15
|
Kon Tum
|
650.297
|
610.625
|
39.672
|
4.453
|
645.844
|
66,7
|
16
|
Gia Lai
|
715.691
|
680.435
|
35.257
|
2.072
|
713.619
|
45,9
|
17
|
Lâm Đồng
|
602.041
|
543.319
|
58.723
|
5.694
|
596.347
|
61,0
|
18
|
Đăc Lăc
|
633.174
|
571.939
|
61.236
|
13.025
|
620.149
|
47,2
|
19
|
Đăk Nông
|
323.990
|
309.428
|
14.563
|
4.201
|
319.789
|
49,1
|
Nguồn: Bộ NN&PTNT
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường tính đến ngày 1/1/2009 dãy Trường Sơn chiếm gần 50% diện tích của cả nước, bên cạnh đó các loại đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất ở cũng cao nhất so với các khu vực khác trên cả nước (Bảng I.2).
Nghìn ha
Tỉnh/Thành phố
|
Tổng diện tích
|
Trong đó
|
Đất sản xuất nông nghiệp
|
Đất lâm nghiệp
|
Đất chuyên dùng
|
Đất ở
|
Dãy Trường Sơn
|
15052,7
|
3433,4
|
8235,8
|
621,3
|
219,7
|
1
|
Thanh Hoá
|
1113,3
|
245,7
|
566,0
|
67,3
|
50,2
|
2
|
Nghệ An
|
1649,1
|
250,1
|
915,9
|
53,2
|
20,2
|
3
|
Hà Tĩnh
|
602,6
|
117,5
|
339,8
|
34,3
|
8,2
|
4
|
Quảng Bình
|
806,5
|
71,5
|
623,4
|
24,3
|
5,0
|
5
|
Quảng Trị
|
474,7
|
79,6
|
219,6
|
14,8
|
7,1
|
6
|
Thừa Thiên Huế
|
506,3
|
55,4
|
289,1
|
20,9
|
16,0
|
7
|
Đà Nẵng
|
128,3
|
8,7
|
67,8
|
39,2
|
5,8
|
8
|
Quảng Nam
|
1043,8
|
110,7
|
566,0
|
29,8
|
20,9
|
9
|
Quảng Ngãi
|
515,3
|
125,7
|
262,8
|
18,1
|
9,4
|
10
|
Bình Định
|
604,0
|
138,1
|
259,2
|
25,3
|
7,8
|
11
|
Phú Yên
|
506,1
|
121,7
|
256,3
|
14,2
|
5,9
|
12
|
Khánh Hoà
|
521,8
|
88,6
|
211,4
|
82,8
|
6,2
|
13
|
Ninh Thuận
|
335,8
|
69,7
|
186,0
|
16,1
|
3,8
|
14
|
Bình Thuận
|
781,0
|
282,9
|
390,7
|
23,3
|
7,7
|
15
|
Kon Tum
|
969,1
|
144,1
|
682,6
|
16,1
|
5,3
|
16
|
Gia Lai
|
1553,7
|
515,3
|
857,8
|
50,3
|
14,6
|
17
|
Đắk Lắk
|
1312,5
|
483,5
|
600,2
|
52,7
|
14,4
|
18
|
Đắk Nông
|
651,6
|
248,4
|
324,0
|
17,7
|
4,1
|
19
|
Lâm Đồng
|
977,2
|
276,2
|
617,2
|
20,9
|
7,1
|
Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường
Tính đến 01/01/2009, nước ta có tổng dân số là 86.024.600 người, mật độ trung bình là 260 người/km2. Dãy Trường sơn có diện tích gần một nửa diện tích của nước ta, nhưng dân số chỉ bằng hơn ¼ dân số của cả nước, vì vậy mật độ trung bình thuộc loại thấp nhất 145,5 người/km2 (Bảng I.3)
TT
|
Tỉnh/thành phố
|
Dân số trung bình (Nghìn người)
|
Diện tích (*)
(Km2)
|
Mật độ dân số (Người/km2)
|
CẢ NƯỚC
|
86024,6
|
331051,4
|
260
|
|
Dãy Trường Sơn
|
23995,3
|
150525,7
|
145,5
|
1
|
Thanh Hoá
|
3405
|
11133,4
|
306
|
2
|
Nghệ An
|
2919,2
|
16490,7
|
177
|
3
|
Hà Tĩnh
|
1230,3
|
6025,6
|
204
|
4
|
Quảng Bình
|
848
|
8065,3
|
105
|
5
|
Quảng Trị
|
599,2
|
4747
|
126
|
6
|
Thừa Thiên Huế
|
1088,7
|
5062,6
|
215
|
7
|
Đà Nẵng
|
890,5
|
1283,4
|
694
|
8
|
Quảng Nam
|
1421,2
|
10438,4
|
136
|
9
|
Quảng Ngãi
|
1219,2
|
5152,7
|
237
|
10
|
Bình Định
|
1489
|
6039,6
|
247
|
11
|
Phú Yên
|
863
|
5060,6
|
171
|
12
|
Khánh Hoà
|
1159,7
|
5217,6
|
222
|
13
|
Ninh Thuận
|
565,7
|
3358
|
168
|
14
|
Bình Thuận
|
1171,7
|
7810,4
|
150
|
15
|
Kon Tum
|
432,9
|
9690,5
|
45
|
16
|
Gia Lai
|
1277,6
|
15536,9
|
82
|
17
|
Đắk Lắk
|
1733,1
|
13125,4
|
132
|
18
|
Đắk Nông
|
492
|
6515,6
|
76
|
19
|
Lâm Đồng
|
1189,3
|
9772,2
|
122
|
Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường
II.4. Thiên nhiên dãy Trường Sơn tính đa dạng và phong phú bậc nhất
Tổ hợp các yếu tố lịch sử địa chất, vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, sự vận động của các luồng sinh vật, quy mô và cộng đồng bản địa quyết định bản sắc đa dạng sinh học của dãy Trường Sơn là độc nhất vô nhị không chỉ trên bán đảo Đông Dương mà trên toàn cầu.
Dãy Trường Sơn có quy mô thuộc loại lớn trên thế giới, với chiều dài nếu chỉ tính từ sông Cả đến giáp Miền Đông Nam Bộ đã là 1100 km. Về mặt lịch sử địa chất, Quần sơn này đã thiết lập chế độ lục địa từ đầu nguyên đại Cổ sinh (khoảng 550 triệu năm trước) với sự hình thành tầng đá trầm tích vụn lục địa màu đỏ còn thấy rất rõ trên Tây Nguyên và ở thành phố Quy Nhơn (Núi Một). Vào cuối kỷ Devon (khoảng 350 triệu năm trước), các hóa thạch thực vật cây vảy (Lepidophyta)- nhóm thực vật cạn nguyên thủy- đã được phát hiện nhiều nơi trong các tầng đá cát kết ở Quảng Bình. Vào cuối kỷ Trias (250 triệu năm trước) những thảm rừng rộng lớn đã góp phần tạo ra bể than đá Nông Sơn Quảng Nam. Từ kỷ Bò sát (kỷ Jura), tức là cách ngày nay trên dưới 200 triệu năm trở lại, những khu rừng lá kim đã xuất hiện mà ngày nay các hóa thạch cây cả trăm triệu năm tuổi đã được phát hiện ngày càng nhiều ở Gia Lai và Khánh Hòa. Cổ lục địa Trường Sơn, vì vậy, xứng danh là nơi sinh cư của nhiều taxon(đơn vị phân loại sinh vật) cả bản địa lẫn ngoại lai trong một tiến trình lịch sử của sự sống chưa bao giờ bị ngắt quãng kể từ nửa tỷ năm qua. Việc phát hiện nhiều loài đặc hữu trong thế giới sinh vật hiện đại ở Quần sơn này (ví dụ Ếch Gai hàm Ngọc Linh, sâm Ngọc Linh, Mang Trường Sơn, Sao la, nhiều loài bò sát, côn trùng và thực vật đặc hữu khác...) là minh chứng cho sự tiếp nối liên tục của lịch sử sự sống và chắc chắn nhiều taxonđặc hữu khác sẽ còn được phát hiện trong thời gian tới.
Với chiều dài 1100 km kéo dài theo kinh tuyến, Trường Sơn có chế độ chuyển mùa liên tục theo chiều dài dãy núi. Người Việt Nam từ lâu đã có thói quen nhìn hoa phượng nở và ve sầu kêu để xem mùa hè chuyển dần từ Nam lên Bắc như thế nào. Trong dãy Trường Sơn còn nhiều khối núi cao trên 2000m, tạo ra sự phân dị phi địa đới theo độ cao. Khi chân núi là mùa hè nóng bỏng thì trên các cao nguyên và đỉnh cao vẫn là chế độ thời tiết kiểu cận nhiệt đới hay ôn đới.Những vùng cao mát lạnh là những vườn dược liệu tự nhiên phong phú với rất nhiều loài bản địa. Hai đặc trưng kéo dài theo kinh tuyến (phân dị địa đới) và theo độ cao (phân dị phi địa đới) đã tạo ra khả năng di cư và hỗn giao của sinh vật. Ngoài sinh vật bản địa, Trường Sơn còn là nơi đón nhận các luồng sinh vật di cư từ Vân nam, Tây Tạng, từ Thailand và cả từ các đảo trên Biển Đông. Các hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới gió mùa thường xanh trên địa hình đá vôi karst ở Trường Sơn Bắc, các hệ sinh thái rừng khộp ở Trường Sơn Nam là những hệ sinh thái đặc thù ít nơi có trên toàn thế giới.
Sườn Đông Trường Sơn là các dải đồng bằng hẹp, nhiều nơi có các nhánh núi ăn ngang ra biển. Biển Miền Trung có nhiều vũng vịnh, chế độ thủy triều đa dạng. Dãy Trường Sơn không chỉ là nguồn dự trữ gen và nguồn thiên địch của các sinh cảnh đồng bằng ven biển mà còn là nơi tiếp nhận các loài sinh vật lạ xâm nhập, các nguồn gen ngoại lại. Chính mối tương tác này cũng góp phần tạo ra sự đa dạng sinh học Trường Sơn, cả trong nhóm cây trồng và vật nuôi lẫn trong nhóm sinh vật hoang dại, cả trong nhóm sinh vật cạn lẫn thủy sinh vật mà trong đó nhiều nhóm là nguồn lợi kinh tế quý giá. Với độ phân cắt sâu và phân cắt ngang khá lớn, nhiều vùng trên dãy Trường Sơn là chướng ngại khó vượt của con người.Vì thế mà Trường Sơn là vùng dân cư thưa thớt trên biên giới 3 nước Việt-Lào-Campuchia. Đó lại là thuận lợi cho sự di chuyển, cư trú và sinh sản của sinh vật hoang dại, ít bị con người quấy nhiễu. Có thể nhận thấy rằng những gì chúng ta biết được về đa dạng sinh học dãy Trường Sơn đến nay mặc dù đã làm ngạc nhiên giới khoa học trên thế giới vẫn mới chỉ là một phần của kho báu to lớn về đa dạng sinh học dãy Trường Sơn.