Ngày 31/3/2010 tập thể các chuyên gia của Hội Môi trường Xây dựng Việt nam đã gửi đến các đồng chí lãnh đạo Quốc Hội và Chính Phủ Bản góp ý gồm11 thiếu sót và bất cập của Đồ án “Quy hoạch xây dựng chung Thủ đô Hà nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050”. Dưới đây chúng tôi chỉ nêu ra 5 định hướng của Quy hoạch không có tính khả thi .
GS.TSKH. Phạm Ngọc Đăng
Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi trường Việt Nam
 |
GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng. |
1. Chuyển Trung tâm hành chính quốc gia (HCQG) lên chân núi Ba vì là vô cùng bất lợi về mọi mặt
a. Về mặt lịch sử là thiếu coi trọng giá trị nghìn năm lịch sử Thăng long - Hà nội
- Trung tâm hành chính quốc gia là hạt nhân quan trọng nhất của một thành phố Thủ đô. Trên Thế giới trong số hơn 200 nước chỉ có 2 nước đặt Trung tâm HCQG ở ngoại ô thành phố thủ đô, đó là Trung tâm HCQG Putrajaya của Malaysia, cách Kuala Lumpur khoảng 30 km, và Trung tâm HCQG Pundang của Hàn Quốc cách Seoul cũng khoảng 30 km, qua thời gian hoạt động thực tế đã chứng tỏ không thành công.
- Chuyển Trung tâm HCQG (trụ sở chính phủ, các bộ/ngành, các sứ quán, trung tâm hội họp quốc gia và quốc tế, kéo theo sẽ là các trung tâm dịch vụ khác) lên chân núi Ba vì, là không phù hợp với nghìn năm lịch sử của Thủ đô Thăng long - Hà nội, là thiếu coi trọng chiếu dời đô của Hoàng Đế Lý Công Uẩn, chiếu dời đô của Hoàng Đế Lý Công Uẩn thực chất là chiếu dời trụ sở bộ máy đầu não điều hành HCQG từ Hoa lư ra mảnh đất thiêng Hoàng thành, Thăng long, chứ không phải là di chuyển cả đô thành Hoa lư ra Thăng long. Nay quy hoạch chuyển trung tâm HCQG từ Hà nội lên chân núi Ba vì, xét cho cùng thì cũng chẳng khác nào là sự dời đô lần thứ 2.
- Chuyển trung tâm HCQG lên chân núi Ba vì là sự không kế thừa các quy hoạch Hà nội trước đây đã được phê duyệt, đặc biệt là trong mấy chục năm gần đây đã xây dựng trung tâm HCQG ở Ba đình và mở rộng sang khu Mỹ đình, gắn bó hữu cơ với trung tâm chính trị, lịch sử và văn hóa Thủ đô. Đúng ra là phải mở rộng trung tâm HCQG ở ngay Hà nội, tại khu đất phía Tây Nam Hồ Tây, đất rất đẹp, điều kiện địa chất - thuỷ văn rất tốt, như là quy hoạch Hà nội trước đây đã lựa chọn.
b. Bất lợi về mặt kinh tế, chi phí xây dựng và chi phí hoạt động vô cùng lớn
- Chuyển trung tâm HCQG lên chân núi Ba vì là chuyển dịch trọng tâm Thủ đô lên phía Tây, xét chung trên phạm vi vùng và quốc gia thì làm sai lệch Thủ đô Hà nội là trung tâm của “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” quốc gia và quốc tế, quá xa với trục phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc “Hà nội - Hải dương - Hải phòng - Quảng ninh” và định hướng phát triển kinh tế của thời đại là “Hướng ra biển”; Xét riêng đối với khu vực Thủ đô cũng ngược lại với động lực phát triển KT-XH của Thủ đô: các vùng phát triển công nghiệp chủ yếu ở phía Bắc, phía Đông và 1 phần ở phía Nam, trong khi định hướng phát triển Trng tâm HCQG, Sơn tây, Hòa lạc, Xuân mai lại ở phía Tây.
- Phải xây dựng đường giao thông mới để nối Trung tâm HCQG từ chân núi Ba vì với Hà nội, được gọi là trục Thăng long. Trục này không phải là trục đô thị chính của TPThủ đô, không mang ý nghĩa văn hóa-lịch sử - kinh tế của Thủ đô, mà đoạn đầu nối với đường Hoàng Quốc Viết mở rộng tới 350m, lại đặt đài Độc lập, hai bên hơn ¾ đoạn đường còn lại là đồng ruộng, làng mạc và cây xanh. Hoàn toàn không thể ví trục Thăng Long này giống như đại lộ Champs-Elysees ở Paris, đại lộ Washington DC hay đại lộ trước Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh (tất cả các đại lộ này đều ở lõi Thủ đô) như Dự thảo Báo cáo của Chính Phủ trình UB thường vụ Quốc hội viết (trang 9). Theo ước tính đầu tư cho trục đường này phải trên 10 ngàn tỷ đồng. Trong khi đó trục đường này, có chỗ chỉ cách đường Láng - Hòa Lạc đã và đang xây dựng khoảng 3km, mà dự kiến lại khởi công xây dựng từ năm 2011 (theo thông báo của Thứ trưởng Bộ Xây dựng) thì thật là lãng phí vô cùng.
- Gây bất ổn định về quy hoạch: quy hoạch xây dựng trụ sở chính phủ, các bộ/ngành, các sứ quán ở Hà nội hiện nay chỉ có tính tạm thời đến năm 2030, sau năm 2030 phải thay đổi mục đích sử dụng, còn ngược lại ở đô thị chân núi Ba vì thì phải quy hoạch giành đất hàng trăm ha đẹp nhất, dự trữ cho xây dựng trung tâm HCQG, phải đầu tư mới tất cả các trụ sở của trung tâm HCQG sẽ rất tốn kém. Tất cả các hoạt động thực hiện quy hoạch xây dựng nêu trên sẽ phải đầu tư kinh phí khổng lồ, đặc biệt là khi mà chưa rõ có chắc chắn cần dùng đến nó trong tương lai không, sẽ dẫn đến sự lãng phí kinh tế vô cùng lớn.
- Trong suốt thời gian hoạt động lâu dài sau này, tổng chi phí xe cộ, thời gian của bản thân Chính phủ, các Bộ, các cơ quan Nhà nước, cơ quan các địa phương, các khách quốc tế và nhân dân giữa TP Hà Nội và Trung tâm HCQG là rất lớn so với giữ nguyên trung tâm HCQG ở Hà nội hiện nay.
c. Về mặt xã hội
Chuyển trung tâm HCQG lên chân núi Ba vì, sau năm 2030 sẽ gây ra sự xáo trộn hệ thống giao thông, thị trường bất động sản, cuộc sống của hàng vạn gia đình, phải di chuyển chỗ ở, chỗ làm việc, hoặc chỗ làm việc và chỗ ở cách quá xa nhau.
d. Về mặt an ninh quốc phòng
Quy hoạch tập trung các cơ quan đầu não Quốc gia vào một địa điểm hẹp cách ly với dân cư (không có nhân dân che chắn, bảo vệ) là điều rất bất lợi về mặt an ninh quốc phòng, các hậu quả bất an ninh chưa thể lường hết được, như là dễ dàng xảy ra kẻ địch bắn tên lửa phá hoại, ném bom, tấn công khủng bố .v.v...
e. Về điều kiện tự nhiên
Khu vực chân núi Ba vì chỉ thích hợp là khu vực bảo vệ thiên nhiên, du lịch sinh thái và là vùng tâm linh quan trọng của Hà Nội mở rộng, không phù hợp để xây dựng đô thị trung tâm HCQG. Khu vực chân núi Ba Vì là vùng đệm của Vườn Quốc gia Ba vì, là thảm sinh thái thiên nhiên và thảm sinh thái nông nghiệp, rừng đầu nguồn, rất quý giá và rất cần được bảo tồn nguyên vẹn.
2. Quy hoạch thành phố hai bên bờ sông Hồng là mạo hiểm và nhiều rủi ro
Việc chỉnh trị dòng sông Hồng qua khu vực Hà nội, nạo vét dòng sông, cũng như củng cố và bê tông hoá hệ thống đê 2 bên bờ sông nhằm đảm bảo an toàn cho TP Hà Nội, tăng lưu lượng giao thông thuỷ và phát triển du lịch trên sông Hồng và sông Đuống là đúng đắn.
- Nhưng việc tận dụng dải đất ngoài đê hiện nay để phát triển đô thị, phố hoá bờ sông như hai bờ sông Hàn ở Seoul, Hàn quốc, có thể là việc mạo hiểm, nhiều rủi ro, không kinh tế (chưa tính đến phải di chuyển hàng vạn dân đang sống ở đây). Định hướng này càng không phù hợp, sau khi mở rộng Thủ đô Hà Nội, vốn không thiếu quỹ đất để phát triển đô thị ở các vùng an toàn hơn;
- Trong thời kỳ biến đổi khí hậu (BĐKH), chúng ta chưa thể lường hết được hậu quả của biến đổi các điều kiện khí hậu – thuỷ văn của lưu vực sông Hồng, dù đã có các đập thuỷ điện ở phía đầu nguồn, các thiên tai lũ lụt cực đoan, bất thường xẩy ra, đặc biệt là điều kiện địa chất của sông Hồng liên quan đến vết đứt gẫy sâu của sông Hồng với chiều dài 1.500 km từ Vân nam, Trung Quốc, tới Vịnh Bắc Bộ;
- Bản chất của dòng chảy sông Hồng là không ổn định, lúc lũ lụt nghiêm trọng, lúc cạn kiệt dòng chảy quá mức, mang theo một lượng phù sa rất lớn và tốc độ dòng chảy rất lớn, khiến tình trạng xói lở, bồi lắng, luôn thay đổi, dẫn đến chuyển lạch, chuyển dịch các bãi bồi giữa sông;
- Với trình độ kỹ thuật và điều kiện kinh tế của nước ta hiện nay thì chưa thể làm được việc chỉnh trị dòng sông Hồng ngay;
- Phố hoá hai bờ sông Hồng sẽ làm tăng số lượng dân cư của nội thành Hà nội, trái với định hướng giảm dần dân số nội thành.
Tất cả các điều kiện kể trên chưa được xem xét cẩn thận trong Đồ án.
3. Đến năm 2030 di dời 400 nghìn dân ra khỏi nội thành Hà nội là duy ý chí
Quy hoạch giảm dân cư ở 4 quận nội thành cũ đến năm 2030 còn 80 vạn người đã được đề ra trong Quy hoạch Hà nội năm 1998, nhưng thực tế hiện nay dân số ở 4 quận nội thành cũ đã tăng lên gần 1,2 triệu người. Do đó Quy hoạch này lặp lại chỉ tiêu trên cho thấy càng khó có tính khả thi;
Rất nhiều công trình cao tầng đồ sộ, các trung tâm dịch vụ, các khách sạn, cửa hàng, các trung tâm thương mại, các chung cư cao tầng, đã được xây chen trong 4 quận nội thành trong thời gian qua, đã đè nặng lên hạ tầng kỹ thuật còn lạc hậu của Hà Nội, là nguyên nhân làm tăng dân số thường trú và làm tăng đột biến số lượng khách vãng lai, là nguyên nhân cơ bản làm tăng ô nhiễm môi trường nước, môi trường không khí và tình trạng căng thẳng về giao thông cuả Hà nội.
Tỷ lệ số dân trong nội thành cũ hiện sống với điều kiện nhà cửa chật hẹp, thiếu điều kiện vệ sinh là ít, người có nhu cầu di chuyển ra khỏi 4 quận nội thành cũ chủ yếu chỉ gồm một số gia đình sống ở 36 phố cổ và ở “xóm liều, xóm bụi”. Có nghĩa là trong số dân nội thành, số người tự nguyện chuyển ra ngoại thành để có điều kiện sống tốt hơn là rất nhỏ, nếu cưỡng chế di chuyển nơi cư trú đối với dân cư nội thành để đạt chỉ tiêu di chuyển 400 nghìn dân là không thể được.
Vì vậy, chỉ tiêu di dời 400 nghìn dân ra khỏi nội thành là không khả thi, hậu quả đáng lo lắng là Quy hoạch sẽ không có phương án nâng cấp, cải tạo hệ thống hạ tầng kỹ thuật để bảo đảm nhu cầu hoạt động của 1,2 triệu dân thực tế, mà chỉ đảm bảo phục vụ cho 800.000 dân theo quy hoạch thôi.
4. Quy hoạch cải tạo, nâng cấp hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị TP Hà nội không đảm bảo TP Thủ đô trở thành Thủ đô “Xanh”
- Về thoát nước mưa và chống úng ngập
Đồ án Quy hoạch viết “ Các lưu vực trong nội đô Hà nội (lưu vực sông Tô lịch) về cơ bản tuân thủ như quy hoạch đã được duyệt (QH thoát nước do JICA lập)”. Thực tế thực hiện quy hoạch thoát nước theo phương án của JICA 15 năm qua chứng tỏ không đạt được mục tiêu, Hà nội vẫn bị úng ngập và bị ô nhiễm trầm trọng. Quy hoạch Thủ đô Hà nội cần phải đánh giá lại quy hoạch thoát nước này, tìm đúng nguyên nhân không thành công và đề ra phương án quy hoạch thoát nước mới cho Hà nội một cách hoàn chỉnh và có hiệu quả thực sự. Phải chăng Hà nội trong thời gian qua đã đi ngược lại ngyuên tắc thoát nước mưa, cụ thể là đã làm giảm dòng nước thoát, làm giảm sức chứa nước mưa và làm giảm diện tích mặt đất thấm nước của Hà nội
Việc tính toán lưu lượng thoát nước mưa cũng cần xem xét lại, khi mà năm 2008 Trạm bơm Yên sở không bơm được hết nước úng ngập. Theo dự báo của các chuyên gia khí tượng với kịch bản BĐKH trung bình đến năm 2100 ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ( trong đó có Hà nội) lượng mưa trong mùa mưa sẽ tăng lên 15,1%, lượng mưa trong mùa khô sẽ giảm đi 6,8%. Điều đó có nghĩa là ở vùng Thủ đô Hà nội úng ngập trong mùa mưa có thể trầm trọng hơn, hạn hán mùa khô có thể gay gắt hơn. Quy hoạch cấp nước và thoát nước của Đồ án Quy hoạch Thủ đô dường như chưa tính đến sự biến đổi khí hậu này.
- Về xử lý nước thải chống ô nhiễm môi trường
Phương án của JICA trước đây là phân chia nội thành Hà Nội thành 7 khu vực, mỗi khu vực sẽ xây dựng 1 trạm xử lý nước thải lớn tập trung. Thực tế đến nay chỉ mới xây dựng được 2 trạm thử nghiệm: trạm xử lý nước thải ở khu vực hồ Trúc Bạch với công suất 2300m3/ngày, rất nhỏ, rất đắt tiền và trạm xử lý nước thải ở Kim Liên (Quận Đống Đa), công suất 3500m3/ngđ. Cho đến nay các trạm xử lý nước thải theo phương án của Quy hoạch của JICA vẫn chưa được thực hiện do không tìm ra các khu đất nội đô để xây dựng các trạm xử lý nước lớn này. Đấy là chưa kể không dễ dàng thu gom nước thải về các trạm xử lý nước thải tập trung. Trong khi đó ở các khu đô thị mới hầu như người ta lại không đầu tư xây dựng các trạm xử lý nước thải riêng cho mình, tất cả đều chờ dẫn về các trạm xử lý nước thải lớn tập trung, khiến sông hồ Hà nội ngày càng bị ô nhiễm.
Vì vậy cần phải đánh giá lại phương án của JICA và nghiên cứu xây dựng quy hoạch thoát nước và xử lý nước thải cho TP Hà nội phù hợp với tình hình thực tế, không thể giữ nguyên phương án quy hoạch của JICA được.
- Về không gian xanh đô thị
Trong đồ án Quy hoạch Thủ đô có đưa ra mục tiêu tăng diện tích đất cây xanh trong đô thị từ 2-3 m2/người hiện nay lên 10-15 m2/người chỉ như là khẩu hiệu, không hề có phương án quy hoạch như thế nào để đạt được mục tiêu trên.
- Về ô nhiễm giao thông
Một trong các nguyên nhân gây ra tắc nghẽn giao thông, không đạt được mục tiêu “Đường thông hè thoáng” là nội thành Hà nội rất thiếu hệ thống giao thông “tĩnh” (các bãi, các trung tâm, các trạm gửi xe, đỗ xe ôtô, xe máy) phân bố hợp lý ở các khu phố. Trong đồ án Quy hoạch Thủ đô không hề đưa ra giải pháp quy hoạch nào để giải quyết vấn đề này.
5. Quy hoạch Thủ đô Hà Nội còn thiếu tính khả thi
Xét cả về các mặt kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật, chúng tôi cho rằng Quy hoạch này còn thiếu tính khả thi.
- Về kinh tế:
Theo bản tổng hợp khái toán của bản thuyết minh Quy hoạch thì kinh phí chỉ tính đầu tư cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật đến năm 2030 đã là khoảng 60 tỷ USD. Nếu tính đầy đủ các khoản đầu tư xây dựng đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa thủ đô Hà Nội thì vốn đầu tư phải tới nhiều trăm tỷ USD. Thông thường, đối với công trình xây dựng, chi thực tế đều cao hơn dự toán. Chúng tôi ước tính chỉ đầu tư cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật đến năm 2030 cũng mất khoảng 100 tỷ USD, tức là mỗi năm trung bình phải đầu tư 5 tỷ USD. Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị thường là tiền ngân sách, e rằng ngân sách nước ta không thể đáp ứng được. Bản thuyết minh có diễn giải kinh phí dựa vào nguồn vốn ODA, FDI, vay tín dụng, trái phiếu chính phủ. Suy cho cùng, tất cả các nguồn vốn đó đều là vốn vay. Liệu có vay được không, trong khi ai cũng biết, vay nước ngoài thì sẽ bị lệ thuộc về kinh tế và chính trị. Mặt khác, đầu tư cho phát triển sản xuất thường có lãi để trả dần, nhưng lợi tức đầu tư cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị không lớn và rất chậm thu hồi so với sản xuất. Như vậy nền kinh tế nước ta có thể sẽ gặp nhiều khó khăn và phát triển sẽ không bền vững.
- Về xã hội:
Hiện nay tỷ lệ nông dân chiếm tới 60%, dân số đô thị chỉ chiếm 40% tổng dân số Thủ đô . Định hướng quy hoạch đô thị hóa đến năm 2030 dân số của Thủ đô đạt 7,1-7,4 triệu người, trong đó dân đô thị đạt 64%, đến năm 2030 dân số Thủ đô đạt 9-9,2 triệu người, trong đó 68% là dân đô thị. Dựa theo các chỉ tiêu trên chúng tôi tính toán được dân số đô thị (phi nông nghiệp) của Thủ đô đến năm 2020 là 4,6 triệu người, đến năm 2030 là 6,2 triệu người, tức là tăng thêm 3,6 triệu người, gấp 2 lần tổng số dân nội thành Hà nội hiện nay. Như vậy là trong vòng 20 năm Thủ đô Hà nội phải tạo ra việc làm mới, nhà ở và công trình dịch vụ đô thị mới cho 3,6 triệu người. Quả thực đây là chỉ tiêu quy hoạch duy ý chí.
Mặt khác, phải thấy bản chất của quá trình đô thị hóa là biến nông thôn thành đô thị, biến nông dân thành thị dân, nhưng Quy hoạch này chỉ tập trung lấy đất của nông thôn để xây dựng các đô thị mới, xây dựng hệ thống giao thông hiện đại và xây dựng các khu công nghiệp v.v... Người nông dân mất đất canh tác, không thể chuyển nghề, không được trở thành thị dân, cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn.
- Về khoa học kỹ thuật, các bản đồ quy hoạch không gian này phần lớn đều là định hướng, thiếu bản đồ quy hoạch cụ thể, thiếu cơ sở khoa học về điều kiện tự nhiên, nhất là điều kiện về địa chất, địa mạo, thuỷ văn của vùng thủ đô Hà nội. Vì thế các bản đồ đó chưa thể dùng làm cơ sở để quy hoạch chi tiết áp dụng vào thực tế.
Bị chú: Các ý kiến phân tích ở trên là dựa trên Bản thuyết minh trình thẩm định của đồ án “Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050” do Bộ Xây dựng trình Chính Phủ tháng 4 năm 2010.