DƯ VĂN TOÁN
Viện Nghiên cứu quản lý biển và hải đảo
Giá trị tài nguyên sinh vật biển Việt Nam
Tài nguyên sinh vật biển Việt Nam đa dạng và phong phú với 13 hệ sinh thái lớn, 100.000ha đầm phá, vịnh, 290.000 ha bãi triều và rừng ngập mặn,112 cửa sông, có 1.600 loài cá được xác định, trong đó 100 loài có giá trị kinh tế cao, trữ lượng hải sản 4 triệu tấn, cho phép khai thác 2 triệu tấn/năm.Vùng biển nước ta có 225 loài tôm biển, nhiều loại có giá trị kinh tế cao, có 2.500 loài động vật thân mềm, 300 loài san hô cứng, 1.647 loài giáp xác, 350 loài động vật da gai, 700 loài giun biển, 150 loài hải miên, thực vật có 15 loài cỏ biển, 350 loại rong tảo làm dược liệu và thực phẩm cao cấp…
Nguy cơ suy thoái đa dạng sinh học biển do hoạt động hàng hải
Bảo tồn hệ sinh thái biển và bảo vệ đa dạng sinh học biển và đại dương là nghĩa vụ của tất cả các quốc gia và công dân trên thế giới. Sự tổn thất về đa dạng sinh học biển Việt Nam đang diễn ra ngày một gay gắt, chủ yếu là do sự phá hủy môi trường sinh sống. Sự khai thác quá mức, đặc biệt các nguồn gây ô nhiễm từ các hoạt động hàng hải như tràn dầu, nước dằn tàu, hóa chất, sinh vật ngoại lai, đắm tàu. Đây là hoạt động gắn liền với phát triển kinh tế nhưng có nhiều tác động bất lợi đối với môi trường, đặc biệt các khu vực sông biển có tuyến luồng hàng hải và cảng biển. Tuy nhiên, việc quy hoạch phát triển hàng hải Việt Nam chưa được gắn liền toàn diện với bảo vệ đa dạng sinh học biển vì sự nghiệp bảo vệ môi trường hướng đến sự phát triển bền vững đất nước. Đa dạng sinh học như hệ sinh thái san hô, rừng ngập mặn và cỏ biển đang bị suy giảm rõ rệt. Hiện tượng thủy triều đỏ và bùng phát tảo nở hoa tuy quy mô không lớn nhưng xuất hiện thường xuyên hơn, ở vùng ven bờ Nam Trung Bộ như các tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa và Đà Nẵng.
Công tác bảo vệ đa dạng sinh học biển tại Việt Nam
Việt Nam đã tham gia ký kết và thực thi các công ước quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học biển như Công ước Luật biển UNCLOS 82, Công ước về đa dạng sinh học CBD của Liên hiệp quốc năm 1992, Công ước đất ngập nước RAMSAR. Tại Việt Nam đã ban hành các Luật: Bảo vệ môi trường, Đa dạng sinh học, Thủy sản, Hàng hải.
Nhiều khu vực dọc dải ven biển Việt Nam có giá trị thiên nhiên và môi trường quốc tế đặc biệt đã được UNESCO công nhận như vịnh Hạ Long, các khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà, ven biển châu thổ sông Hồng, Cù Lao Chàm, Cần Giờ, Cà Mau, Kiên Giang và sắp tới là khu liên tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (Bến Tre-Trà Vinh-Sóc Trăng). Năm 2010, Chính phủ cũng đã có quyết định xây dựng 16 khu bảo tồn biển đến năm 2020: Đảo Trần, Cô Tô, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Sơn Trà-Hải Vân, Cù Lao Chàm, Nha Trang, Phú Quý, Hòn Cau, Núi Chúa, Côn Đảo, Phú Quốc, Nam Yết. Ngoài ra, hiện đang có các vườn quốc gia ven biển như Bái Tử Long, Cát Bà, Xuân Thủy, Núi Chúa, Côn Đảo, Cà Mau, Phú Quốc và các khu bảo tồn thiên nhiên Tiền Hải, Thạnh Phú (Hình 1).
Năm 2008, Chính phủ đã có quy hoạch 45 khu bảo tồn nước nội địa bao gồm cả các cửa sông. Chúng ta có nhiều vùng với các hệ sinh thái biển mang lại giá trị kinh tế cao mặc dù đã có các biện pháp bảo vệ nhưng vẫn dễ bị tổn thương như rừng ngập mặn, san hô… (Hình 2, 3, 4). Các rạn san hô và rừng ngập mặn là nơi sinh sống, đẻ trứng của nhiều loài sinh vật biển, là lá chắn sóng chống xói mòn và bảo vệ bờ biển, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Hoạt động hàng hải và cảng biển Việt Nam
Các vùng biển Việt Nam đang có những hoạt động giao thương hàng hải nhộn nhịp. Tuy nhiên các hoạt động này là nguyên nhân của các sự cố như tràn dầu, nước thải dằn tàu, sinh vật ngoại lai, các hóa chất gây hại (Hình 5).
Theo số liệu của Cục Đăng kiểm Việt Nam, nguyên nhân chính gây ô nhiễm biển như lau rửa hầm hàng chiếm 46%, từ nước la canh và ballast chiếm 22%, tràn dầu chiếm 24%, sự cố giao nhận dầu 3% và do nguyên nhân khác là 3%. Các loại tàu thuyền nước ta đã tiêu thụ khoảng hơn 1/4 lượng nhiên liệu lỏng và xả vào không khí nhiều khí thải như CO2, CO, chất hữu cơ bay hơi (VOCs), SO2, các Oxit nitơ (NOx), bồ hóng (muội than). Ô nhiễm đáng kể nhất do hoạt động vận tải thủy vẫn là ô nhiễm nước do dầu, tích đọng kim loại nặng vào trầm tích. Nồng độ dầu trung bình trong nước tại khu vực các sông khu vực Hạ Long - Hải Phòng khoảng 0,26mg/lít, khu vực Đà Nẵng – Dung Quất khoảng 0,29mg/lít và vùng Bà Rịa - Vũng Tàu khoảng 0,14 - 0,52mg/lít. Khoảng 50% tuyến sông được đánh giá bị ô nhiễm nước do có hoạt động vận tải thủy nội địa; trên mỗi tuyến sông có hoạt động vận tải thủy phải tiếp nhận khoảng 100 - 275m3 nước thải nhiễm bẩn không qua xử lý/ngày từ các phương tiện vận tải thủy.
Đến nay Việt Nam có 49 cảng biển, 48 vũng vịnh và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển. Đặc biệt, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ dương và Thái Bình dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản. Thêm vào đó với hệ thống sông ngòi dày đặc như hệ thống sông vùng duyên hải Quảng Ninh, hệ thống sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đông Trường Sơn, sông Đồng Nai - Vàm Cỏ và hệ thống sông Cửu Long... Các tuyến đường sông, đường bộ ven biển được xây dựng trong thời gian qua không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho thông thương nội địa Việt Nam mà còn giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế-xã hội, giao lưu văn hóa, an ninh quốc phòng, an ninh hàng hải. Phương tiện giao thông thủy ngày càng nhiều, sản lượng khai thác và vận chuyển dầu khí trên biển không ngừng tăng, gây nên tình trạng ô nhiễm dầu trên diện rộng. Tràn dầu là tai biến đáng báo động, đến nay đã có trên 40 vụ, điển hình như tai nạn tàu Neptune Aries làm tràn 1.865 tấn dầu vào năm 1994 tại cảng Sài Gòn. Các sự cố khác rất hay xảy ra như năm 2010 tàu chở xi-măng mắc cạn tại vịnh Nha Trang ảnh hưởng tới các rạn san hô vào, hay các sự cố tràn dầu hàng năm trên các sông vào cảng Sài Gòn gây ảnh hưởng tới hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ, hàng loạt tầu thuyền du lịch chìm đắm tại Vịnh Hạ Long cũng gây ô nhiễm cho sinh vật.
Kinh nghiệm thiết lập các khu bảo vệ đa dạng sinh học - hàng hải của IMO
Khu vực đặc biệt SA, theo quy định của Công ước MARPOL 73/78 là khu vực biển đặc biệt được thiết kế cho vùng biển kín và nửa kín có quy định trước cho các chất thải đổ ra biển. Một vùng biển SA - các tiêu chí trong mỗi loại trong hướng dẫn phải được chấp nhận. Các tiêu chí cho một SA có thể bị thay đổi: Điều kiện hải dương học, điều kiện sinh thái biển và đa dạng sinh học biển và đặc tính tuyến giao thông hàng hải. Các quốc gia có thể có biện pháp bảo vệ SA trong công tác phòng chống ô nhiễm biển theo Công ước MARPOL 73/78. Phụ lục I (dầu mỏ), II (chất lỏng độc hại), IV (nước thải) và V (rác thải) MARPOL được quy định tiêu chuẩn xả đặc biệt áp dụng bên trong các SA do IMO quy định. Hiện đã có 22 khu biển SA (Bảng 1).
Đánh giá về phương án SA đối với vùng biển Việt Nam và lân cận đủ tiêu chuẩn là các vùng như: Vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan.
Đề xuất phát triển ngành HHVN và bảo vệ đa dạng sinh học biển
Để phát triển hàng hải và bảo vệ môi trường biển, bảo vệ đa dạng sinh học biển và hội nhập quốc tế thì ngành HHVN cần phải thiết lập một số Khu biển nhạy cảm hàng hải Việt Nam (VSA) có ranh giới rõ ràng đối với các khu có đa dạng sinh học biển cao (Hình 5), áp dụng một phần tiêu chí do IMO đã quy định đối với SA, hay PSSA. Do các phương án SA và PSSA là các phương án của IMO hiện có với quy trình xét duyệt phức tạp và tốn khá nhiều thời gian nên có thể coi đây là những nhiệm vụ trong tương lai.
Hiện tại cần sớm thiết lập các khu VSA- khu cấm qua lại (ATBA) cho các khu bảo tồn biển Việt Nam. Các hoạt động hàng hải tại các luồng hàng hải và cảng biển có vùng đa dạng sinh học biển cần áp dụng những quy tắc hàng hải (theo quy định IMO) hạn chế như: hệ thống báo cáo bắt buộc; chế độ hoa tiêu dẫn đường, định tuyến, định làn giao thông, hạn chế chở loại hàng nguy hại, xả thải, cấm neo đậu tàu.