Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bắc Hướng Hóa có diện tích khoảng 25.000 ha rừng và đất rừng, thuộc địa bàn phía Bắc huyện Hướng Hóa, có nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Phạm Bình Quyền, Khổng Trung
Tóm tắt
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bắc Hướng Hóa có diện tích khoảng 25.000 ha rừng và đất rừng, thuộc địa bàn phía Bắc huyện Hướng Hóa, có nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, bao gồm quần thể các loài động, thực vật quý hiếm như: Gà lôi lam mào trắng, Voọc Hà Tĩnh, Sao la, Mang lớn, Thỏ vằn...; Đinh tùng, Lan hải, Trầm hương; duy trì giá trị dịch vụ hệ sinh thái và chức năng rừng phòng hộ đầu nguồn cho các con sông Bến Hải, Rào Quán, Sông Hiếu và sông Sê Phăng Hiêng (CHDCND Lào).
Về khu hệ thực vật, đã phát hiện 920 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 518 chi và 130 họ. Trong số đó, có 17 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và 23 loài – trong Sách Đỏ Thế Giới (IUCN, 1996). Về giá trị sử dụng đã thống kê được 125 loài cây cung cấp gỗ, 161 loài cây làm thuốc, 44 loài cây làm cảnh và 89 loài cây làm thực phẩm. Khu hệ động vật hoang dã ở đây là còn chứa nhiều tiềm ẩn bất ngờ về các loài mới cho khoa học, là khu vực có tính đa dạng sinh học cao, là nơi giao lưu của khu hệ động vật giữa Tây và Đông Trường Sơn, giữa Bắc và Nam Trường Sơn. Tại khu vực này cũng đã ghi nhận có sự di cư theo mùa và thay đổi tập tính kiếm ăn của động vật, đặc biệt là các loài thú lớn. Về thành phần loài, đã phát hiện 42 loài thú (không kể Dơi) thuộc 17 họ và 6 bộ. Về khu hệ Chim, đã phát hiện 171 loài, thuộc 14 bộ, và 32 họ. Khu hệ Bò sát và Ếch nhái đã phát hiện 30 loài Ếch nhái thuộc 5 họ, 1 bộ và 31 loài Bò sát thuộc 8 họ và 2 bộ; phát hiện một số loài mới cho khu vực: 2 loài Ếch cây thuộc giống Theloderma spp., Ếch cây Hymalayan (Rhacophorus bipunctatus), Rắn ri cá (Homalogis buccata), Rắn khuyết (Lycodon ruhstrati), Rắn lục cườm (Trimeresurus mucrosquamatus), Rắn cạp nia thường (Bungarus bungaroides), v.v... Ngoài ra, cũng đã phát hiện 3 loài có thể là loài mới cho khoa học thuộc các giống: Nhái cây (Philautus), Rắn sãi (Amphiesma) và Rắn khiêm (Oligodon).

1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ-XÃ HỘI
1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
1.1.1. Địa hình
Địa hình Khu BTTN Bắc Hương Hóa là vùng núi thấp ở phía Nam của dãy Trường Sơn Bắc. Là khu vực duy nhất của Việt Nam có cả Đông và Tây Trường Sơn với dãy núi cao trên 1.000 m chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, dọc ranh giới hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị; có các hồ trên núi cao. Về phía Quảng Trị, địa hình nâng cao hơn, chia cắt mạnh, độ dốc phổ biến từ 12-25o, có nhiều nơi dốc đứng, với các đỉnh cao điển hình như: Động Sa Mù (1.550 m) gần đỉnh đèo Sa Mù và Động Voi Mẹp (1.771 m) ở phía Nam Khu Bảo tồn. Trong khu vực, ngoài đồi, núi đất chiếm đa số, còn lại có hai dãy núi đá vôi. Ở gần trung tâm là dãy đá vôi chạy theo hướng Đông Tây, ranh giới hai xã Hướng Lập và Hướng Việt. Gần trung tâm xã Hướng Việt có dãy núi đá vôi chạy theo hướng Bắc Nam (UBND tỉnh Quảng Trị, 2005, Phạm Bình Quyền và nnk,2011) .
1.1.2. Khí hậu
Khu BTTN Bắc Hướng Hóa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 5. Ba tháng có lượng mưa nhiều nhất là tháng 8, 9 và 10. So với khí hậu Quảng Trị, vùng này là khu vực có khí hậu của Tây Trường Sơn, mùa khô và mùa mưa cũng đều đến sớm hơn.
Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng từ 24-25oC, tương đương với tổng nhiệt năm khoảng 8.300-8.500oC. Mùa đông tương đối lạnh và rất ẩm ướt do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, nhiệt độ trung bình trong các tháng này ở vùng đồng bằng xuống dưới 22oC, còn trên các vùng có độ cao từ 400-500 m trở lên thường xuống dưới 20oC và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất xuống dưới 15oC ở Khe Sanh vào tháng 12 và tháng 1. Ngược lại, mùa hè do có sự hoạt động của gió Tây nên rất nóng và khô. Có tới 3-4 tháng (từ tháng 1 đến tháng 5) nhiệt độ không khí trung bình lớn hơn 25oC, tháng nóng nhất thường là tháng 4 hoặc tháng 5 có nhiệt độ trung bình lên tới 29oC. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên tới 39-40oC. Độ ẩm trong các tháng này cũng xuống rất thấp, dưới 30%.
Khu BTTN Bắc Hướng Hóa có lượng mưa rất lớn, trung bình năm đạt tới 2.400 - 2800 mm hoặc lớn hơn và tập trung chủ yếu trong mùa mưa, hai tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 9 và 11, chiếm tới 45% tổng lượng mưa hàng năm. Mưa ít bắt đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 11. Độ ẩm không khí trong vùng đạt tới 85-90%, trong đó, trong mùa mưa độ ẩm lên tới 91%. Mặc dù vậy, những giá trị cực đoan thấp vẫn đo được trong thời kỳ khô nóng kéo dài.
Trong Bảng 1.1 là số liệu khí tượng cơ bản lấy từ 3 trạm khí tượng, trong đó trạm Khe Sanh và Tuyên Hóa là những trạm nằm ở vùng giáp ranh và có điều kiện tự nhiên gần với Khu Bảo tồn.
Bảng 1.1. Số liệu khí tượng trung bình nhiều năm một số trạm có liên quan đến khu BTTN Bắc Hướng Hóa (2010)
Các số liệu khí hậu
|
Khe Sanh
|
Quảng Trị
|
Tuyên Hóa
|
Tổng lượng mưa TB/năm (mm)
|
2.262,0
|
2.563,8
|
2.266,5
|
Lượng mưa TB tháng lớn nhất (mm)
|
469,6 (IX)
|
620,5 (X)
|
582,0
|
Lượng mưa TB tháng nhỏ nhất (mm)
|
17,3 (II)
|
66,2 (IV)
|
24,9
|
Số ngày mưa TB trong năm
|
161,1
|
151,2
|
-
|
Nhiệt độ TB năm
|
22,4
|
25,0
|
24,3
|
Số giờ nắng trung bình trong năm
|
-
|
1885,7
|
-
|
Nhiệt độ KK cao nhất tuyệt đối
|
38,2
|
42
|
-
|
Nhiệt độ KK thấp nhất tuyệt đối
|
7,7 (XII)
|
9,8 (I)
|
-
|
Độ ẩm trung bình năm (%)
|
87
|
82
|
84
|
Gió Tây khô nóng: Đây là vùng chịu nhiều ảnh hưởng của gió Tây khô nóng. Hoạt động của gió Tây thường gây nên hạn hán trong thời kỳ đầu và giữa mùa hè (từ tháng 2-4). Trong những tháng này, nhiệt độ tối cao có thể vượt quá 39oC và độ ẩm tối thấp xuống dưới 30%.
1.1.3. Thủy văn
Do có địa hình có độ dốc lớn nên sông suối xuất phát từ đây thường ngắn, dốc đổ ra biển theo hướng Đông hoặc Đông Bắc. Trong vùng nghiên cứu, có các hệ thống sông chính sau:
- Phía Đông Bắc là sông Bến Hải, tất cả các con suối bắt nguồn từ sườn Đông đều chảy vào sông Bến Hải và đổ ra biển Đông ở Cửa Tùng.
- Phía Tây Bắc và Nam của Khu Bảo tồn là thượng nguồn sông Xê Păng Hiêng chảy qua Lào vào sông Mê Kông.
- Phía Đông Nam, bao gồm Bắc Động Sa Mùi và Đông Động Voi Mẹp là thượng nguồn của sông Cam Lộ (gọi là nguồn Rào) và đổ ra biển Đông tại Cửa Việt.
- Phía Nam là hệ thống suối của sông Rào Quán, là một chi lưu của sông Quảng Trị (Thạch Hãn). Nơi đây có công trị thủy điện Rào Quán (UBND Quảng Trị, 2005).
1.2. Đặc điểm kinh tế-xã hội
Các thông tin về kinh tế-xã hội được thu thập ở 5 xã thuộc huyện Hướng Hóa và 1 xã huyện ĐaKrông, có liên quan đến Khu BTTN Bắc Hướng Hóa, gồm: Hướng Lập, Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Việt và Hướng Linh (huyện Hướng Hóa) và Hướng Hiệp (huyện ĐaKrông). Tổng số dân là 9.151 người, 1.915 hộ, trong đó có 1.308 hộ là người Vân Kiều (chiếm 68,3% tổng số hộ của 5 xã), dân tộc Pa Cô chỉ có 1 hộ, còn lại là người Kinh (Bảng 1.2).
Bảng 1.2. Thống kê tình hình dân số, diện tích và mật độ dân số trong khu vực năm 2008
Hạng mục
|
Hướng Lập
|
Hướng Việt
|
Hướng Phùng
|
Hướng Sơn
|
Hướng Linh
|
Cộng
|
Tổng số hộ
|
188
|
185
|
928
|
262
|
352
|
1.915
|
+ Kinh
|
6
|
5
|
576
|
8
|
11
|
606
|
+ Vân Kiều
|
182
|
180
|
351
|
254
|
341
|
1.308
|
+ Pacô
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
+ Khác
|
0
|
0
|
1
|
0
|
0
|
1
|
Nhân khẩu
|
1.154
|
1.039
|
3.517
|
1.540
|
1.901
|
9.151
|
+ Nam
|
591
|
524
|
1849
|
798
|
948
|
4.710
|
+ Nữ
|
563
|
515
|
1668
|
742
|
952
|
4.440
|
Lao động
|
426
|
422
|
1.634
|
592
|
763
|
3.837
|
+ Nam
|
212
|
218
|
862
|
300
|
385
|
1.617
|
+ Nữ
|
214
|
204
|
772
|
292
|
378
|
1.860
|
Số hộ đói nghèo
|
114
|
115
|
148
|
140
|
234
|
751
|
Tỷ lệ hộ đói nghèo (%)
|
60,6
|
52,2
|
15,9
|
53,4
|
66,5
|
22,26
|
Mật độ dân số (người/km2)
|
7,4
|
15,9
|
28,2
|
7,5
|
16,3
|
15,06
|
Diện tích tự nhiên (km2)
|
155,37
|
65,2
|
124,79
|
204,56
|
116,55
|
665,91
|
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Hướng Hóa, 2008.
Kết quả ở Bảng 1.2 cho thấy, tổng số hộ đói nghèo của 5 xã là 751 hộ (chiếm 39,2% tổng số hộ của 5 xã). Trong đó, xã có tổng số hộ đói nghèo của 5 xã là 751 hộ (chiếm 39,2% tổng số hộ của 5 xã). Trong đó, xã có tổng số hộ đói nghèo nhiều nhất là xã Hướng Linh với tổng số hộ đói nghèo là 234 hộ, chiếm 66,5% tổng số hộ. Tổng diện tích đất tự nhiên của 5 xã là 665.914 ha, trong đó, xã Hướng Việt có diện tích tự nhiên là nhỏ nhất (6.520), xã Hướng Sơn có diện tích tự nhiên lớn nhất (20.456 ha). Dân cư các xã trong vùng có mật độ dân số là tương đối thấp (19,1 người/km2), trong đó, xã có mật độ phân bố dân cư thấp nhất là xã Hướng Lập với 7,4 người/ km2, xã có mật độ dân số cao nhất là xã Hướng Phùng với 28,2 người/km2.
2. ĐẶC ĐIỂM ĐA DẠNG SINH HỌC
2.1. Địa lý sinh học
Khu vực Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bắc Hương Hóa là một phần của tiểu vùng địa lý sinh học Đông Dương, thuộc vùng núi thấp miền Trung Việt Nam, nằm ở phía Đông Bắc của bán đảo Đông Dương. Tiểu vùng địa lý sinh học này cũng đã được một số tác giả đề cập với các tên gọi khác nhau như: đơn vị 18 (King et.al, 1975); đơn vị 05b (MacKinnon and MacKinnon, 1986); đơn vị 05c (MacKinnon et.al, 1997). Một số tác giả khác gọi vùng này là Rừng Mưa Đông Dương hay đơn vị 4.5.1 (Tordoff A. et.al, 2003).
Trong xuất bản phẩm gần đây "Các vùng chim đặc hữu thế giới", một số khu vực thuộc miền Trung Việt Nam, đặc biệt các khu thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế được xếp vào đơn vị 143. Vùng này bao gồm vùng đất thấp, vùng đới chuyển tiếp Bắc Trung Bộ và một phần phụ cận thuộc Trung Lào (Stattersfied et al, 1998; Tordoff A. et.al, 2003).
Từ các quan điểm về địa sinh học nêu trên Khu BTTN Bắc Hương Hóa nằm gần ranh giới phía Đông giữa vùng Đông Á và cổ Bắc Cực nhưng chủ yếu thuộc vùng Đông Á. Theo Lekagul và Round (1991) xác định vị trí địa lý sinh học Khu BTTN Bắc Hướng Hóa là:
+ Vùng Đông Á;
+ Tiểu vùng Đông Dương;
+ Vùng đất thấp Bắc Trung Bộ (Stattersfied và cộng sự, 1998).
Tuy nhiên về địa lý động vật học Việt Nam (Đào Văn Tiến, 1985; Võ Quý, 1991; Võ Quý, Nguyễn Cử, 1999; Phạm Bình Quyền và nnk, 2011) xác định khu vực này là một phần của khu hệ động vật Bắc Trường Sơn.
2.2. Thảm thực vật
Toàn bộ khu vực theo như phân loại của Thái Văn Trừng ( 1978, 1999), được bao phủ bởi các kiểu rừng kín thường xanh. Ở độ cao dưới 600 m là rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và từ 600 m trở lên là kiểu rừng kín thường xanh á nhiệt đới. Nhưng trải qua quá trình tác động lâu dài của con người như đốt nương làm rẫy, khai thác lâm sản và ảnh hưởng của chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hóa học đã làm thay đổi nhiều diện mạo của rừng thường xanh ở khu vực Bắc Hướng Hóa. Hiện nay ở khu vực Bắc Hướng Hóa dễ dàng nhận thấy dạng thảm thực vật nguyên sinh và dạng thảm thực vật thứ sinh phục hồi sau tác động.
Bảng 2.1. Diện tích các loại đất đai khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa
Kiểu sử dụng đất
|
Tổng
|
Tỷ lệ rừng TN (%)
|
Tỷ lệ (%)
|
Tổng diện tích
|
25.200,0
|
|
100
|
Rừng tự nhiên
|
20.646,2
|
82,0
|
|
Rừng thường xanh giàu
|
1.923,0
|
|
7,63
|
Rừng thường xanh trung bình
|
14.158,1
|
|
56,20
|
Rừng thường xanh nghèo
|
983,0
|
|
3,90
|
Rừng phục hồi (rừng non)
|
2.268,1
|
|
9,00
|
Rừng tre nứa
|
3,0
|
|
0,01
|
Rừng trên núi đá
|
1.311,0
|
|
5,20
|
Đất trống cây gỗ rải rác
|
2.224,2
|
|
8,82
|
Đất trống cỏ cây bụi
|
860,9
|
|
3,41
|
Núi đá không có rừng
|
889,0
|
|
3,52
|
Đất khác*
|
579,7
|
|
2,30
|
Ghi chú: * Đất khác bao gồm đất nông nghiệp, thổ cư, mặt nước và sông suối.
2.2.1. Thảm thực vật nguyên sinh
Thảm thực vật nguyên sinh ở Khu BTTN Bắc Hướng Hóa có các kiểu rừng như sau:
a. Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới (phân bố dưới 600 m) thường gặp các kiểu phụ:
- Kiểu phụ rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất
Kiểu phụ rừng này chiếm phần lớn diện tích Khu BTTN Bắc Hướng Hóa, hầu như chưa bị tác động (cho đến nay), thành phần thực vật có tính đa dạng cao; Trong tổ thành có sự tham gia của rất nhiều họ thực vật nhiệt đới ẩm, cây lá rộng xanh quanh năm, cây to, tán lớn, tròn. Những họ thường gặp là: Họ Xoan (Meliaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Trám (Burceraceae), họ Côm (Eleocarpaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Na (Annonaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Dung (Simplocaceae), họ Trôm (Sterculiaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Mùng quân (Flacoutiaceae), họ Nhân sâm (Araliaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Dâu tằm (Moraceae). Nhóm dây leo gỗ thường to và dài, có thể dài đến 20-30 m, đường kính có thể đạt tới 10 cm. Thường gặp các loài thuộc các họ: họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Na (Annonaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Nho (Vitaceae), họ Thiên lý (Aslepiadaceae), họ Cau dừa (Arecaceae). Cây gỗ nhỏ, cây bụi dưới tán thường gặp các loài trong họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ôrô (Acanthaceae), họ Mua (Melastomataceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Cau dừa (Arecaceae), Dương xỉ mộc (Cyatheaceae). Trong tầng cỏ quyết: phổ biến gặp là các loài Dương xỉ (Polypodyophyta), nhiều loài thuộc họ Môn ráy (Araceae), họ Gai (Urticaceae), họ Dứa gai (Pandanaceae), họ Đao dong (Maranthaceae), họ Riềng (Zingiberaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae). Ở những khoảng trống nhiều ánh sáng có thể có sự có mặt nhiều loài của chi Hedyotis họ Cà phê (Rubiaceae), nhiều loài cỏ thuộc họ Hòa thảo (Poaceae), một số loài thuộc họ Cúc (Asteraceae). Trên các khe, vách nơi ẩm gặp một số loài họ Thu hải đường (Begoniaceae).
Đặc trưng về tầng tán thể hiện rõ sự phân tầng với 5 tầng:
Tầng 1 (tầng vượt tán/tầng nhô). Trên khu vực núi đất trong tầng vượt tán có chiều cao 20-25 m đôi chỗ có thể có cây cao trên 25 m. Các loài thường gặp trong tầng này là các cây gỗ cao to, đường kính dao động từ 40-80 cm. đôi chỗ có thể có cây đạt tới đường kính 1-1,2 m. Tuy nhiên độ phủ của tầng này không cao chỉ ở mức 15-20%, nghĩa là số cây gỗ cao to vượt tán không nhiều, các loài thường gặp trong tầng này là loài Cà ná mũi nhọn (Canarium subulatum) và Trám trắng (Canarium album) thuộc họ Trám (Burceraceae).
Tầng 2 (tầng ưu thế sinh thái). Thường cây gỗ có chiều cao tương đối đồng đều 10-15 m, tán tròn tạo ra một màn có độ che phủ cao đạt tới 50-60%. Cây gỗ có đường kính trung bình 30-40 cm; Tầng này là sự đan xen, có tính đa dạng cao của các họ thực vật nhiệt đới ẩm, lá rộng thường xanh. Xét về số lượng cá thể của các họ khó có thể khẳng định độ ưu thế thuộc về họ nào; có thể ở vị trí này ưu thế thuộc về họ Dẻ (Fagaceae) thì ở vị trí khác lại thuộc về họ De (Lauraceae) và có thể ở các vị trí khác ưu thế lại thuộc về những họ khác nhau như họ Đậu (Fabaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae). Tầng này chứa đựng tính đa dạng thực vật cao, có ý nghĩa lớn về mặt sinh thái và giá trị môi trường.
Tầng 3 (tầng dưới tán/tầng cây bụi và gỗ nhỏ). Có chiều cao 7-10 m. Thường gặp các cây tái sinh của hai tầng trên và những loài cây gỗ nhỏ thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Côm (Eleocarpaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Mùng quân (Flacourtiaceae), họ Na (Annonaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Cam quýt (Rutaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Dung (Simplocaceae), họ Máu chó (Myristicaceae). Những nơi ẩm thung lũng có Dương xỉ gỗ, chi Cyatheca, nhiều loài Ficus chi Sung vả (Ficus) họ Dâu tằm (Moraceae); một số loài chi Sarauja, họ Dương đào (Actinidiaceae), một hai loài Sổ thuộc chi Sổ (Dillenia) họ Sổ (Dilleniaceae) và tại những khu vực ven suối thung lũng có sự tham gia của Nứa dại họ Poaceae.
Tầng 4 (tầng cây bụi): có chiều cao 3-5 m thường là các cây bụi chịu rợp, sống dưới tán. Phổ biến là các loài họ Mua (Melastomataceae), họ Ô rô (Acanthaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cau dừa (Arecaceae) với những cây tái sinh của tầng 1, 2, 3 do bị che rợp sống còi cọc.
Tầng 5 (tầng thảm tươi/tầng cỏ quyết). Nhìn chung có tính ổn định cao; rừng ít bị tác động, tàn che của các tầng 1, 2, 3 và 4 ổn định nên tầng Cỏ quyết phát triển yếu, thưa thớt, chỉ ở những khu vực ven suối thung lũng thấp, nơi có ánh sáng, tầng này mới thể hiện rõ, ưu thế của tầng này thuộc về các loài Dương xỉ (Polypodyophyta), nhiều loài thuộc họ Môn ráy (Araceae), họ Gừng (Zingiberaceae), họ Đao dong (Maranthaceae), họ Gai (Urticaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Hòa thảo (Poaceae).
- Kiểu phụ thảm thực vật rừng kín cây lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi.
Do đặc trưng về lập địa: thường các dãy núi đá vôi có thành rất dốc, có chỗ vách đá dựng đứng, chóp nhọn, tầng đất mặt rất mỏng hay không có, phần chân thoải. Rừng trên núi đá vôi có độ che phủ thấp, không tạo được một màn khép tán liên tục như kiểu rừng trên núi đất. Về mặt cấu trúc tầng tán: Vẫn thể hiện 5 tầng; nhưng điều khác biệt cơ bản của kiểu phụ thảm thực vật trên núi đá vôi so với kiểu phụ trên núi đất là về thành phần hệ thực vật. Ưu thế trong các tầng của kiểu thảm này là những loài chịu khô, phát triển trên nền đá vôi với những loài đặc trưng không gặp trên vùng núi đất. Với những họ thường gặp có số lượng cá thể khá phong phú gồm các loài trong chi Lòng mang (Pterospermum) họ Trôm (Sterculliaceae); thuộc chi Trâm (Syzygium) họ Sim (Myrtaceae), thuộc chi Thị rừng (Diospyros) họ Thị (Ebenaceae); chi Bứa (Garcinia) họ Măng cụt (Guttiferae); thuộc chi Cóc rừng (Spondias), Dâu gia xoan chi Allospondias; Xuyên cóc chi Choerospondias, Sưng đào chi Semecarpus; họ Đào lộn hột (Anacardiaceae); chi Bình linh (Vitex) họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Một số loài thuộc họ Gai (Ulmaceae); chi Sếu (Celtis); nhiều loài họ Đay (Tiliaceae). Đặc biệt phải kể đến cây Phay rất thường gặp ở các thung lũng ven suối núi đá vôi (Duabanga sonneratoides) họ Bần (Sonneratiaceae) và một số loài thuộc chi Đùng đình (Caryota) họ Cau dừa (Arecaceae). Nhiều loài thuộc chi Lụi (Rhapis), loài Đùng đình (Caryota bacsonensis) cây to đường kính tới 50 cm, cao 10-15 m rất đặc trưng cho vùng núi đá vôi. Đặc biệt ở kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi thảm thực vật bò leo trên đá rất nhiều loài thuộc họ Môn ráy (Araceae) và họ Hồ tiêu (Piperaceae); cũng trong tầng thảm tươi là sự có mặt rất đặc trưng của các loài Lá han: Han trâu (Dendrocnide urentissima), Han tím (Laportea interrupta), Han bò (Laportea thorelli) khi bị cọ sát vào da gây rất ngứa; và các loài khác thuộc họ Gai (Urticaceae). Trên những thành vách đá có rất nhiều loài chi Đa sung (Ficus) nhóm cây có nhựa mủ chịu khô hạn; Những nơi ẩm thường gặp một số loài chi Ngũ gia bì (Schefflera) họ Nhân sâm (Araliaceae) chịu khô hạn tốt, rễ nổi bám vào các khối hay thành vách đá phát triển mạnh .
b. Rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp (phân bố từ độ cao 600 m trở lên)
Tại Khu BTTN Bắc Hướng Hóa, kiểu thảm thực vật thường xanh á nhiệt đới núi thấp phân bố từ độ cao 600 m trở lên chỉ gặp trên núi đất (khu vực núi đá vôi ít, không có các đỉnh cao). Kiểu thảm này có diện tích khá, phần lớn giữ được tính tự nhiên ít bị tác động. Về cấu trúc tầng không đồng nhất ở các khu vực: vùng thung lũng, nơi bằng có dạng điển hình 5 tầng gần giống với kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất, cũng thể hiện rõ 5 tầng (tầng 1: tầng vượt tán; tầng 2: tầng ưu thế sinh thái; tầng 3: tầng cây gỗ nhỏ và cây bụi; tầng 4: tầng dưới tán – tầng cây bụi; tầng 5: tầng cỏ quyết – thảm tươi). Nhưng ở những triền núi dốc hay ở các đỉnh dông, đỉnh núi, do bị bào mòn tầng đất mặt mỏng (có nhiều đá lộ đầu), yếu tố ánh sáng mạnh cộng với tác động của gió đã ảnh hưởng mạnh tới hệ thực vật: Không có cây to cao, nên ít thấy cây vượt tán nên chỉ thấy rõ 4 tầng. Các đỉnh cao, các chóp núi thường có gió liên tục, cường độ, mật độ ánh sáng phân bố đều, cộng với tầng đất mặt rất mỏng chỉ thích hợp cho một số loài ưa lạnh, chịu gió, phát triển được trên tầng đất nghèo dinh dưỡng, nên thành phần thực vật nghèo nàn; tầng tán đơn giản, chỉ thấy rõ 3 tầng.
Tầng đất mặt rất mỏng, gió thường xuyên, lại có mây mù luôn xuất hiện nên chỉ thấy rải rác có cây bụi và ưu thế là những loài họ Hòa thảo (Poaceae), Chè vè (Miscanthus floridulus), Chít (Thysanoloena maxima) hay Trúc gai (Sinarundinaria griffithiana) phát triển mạnh.
Những khác biệt lớn phân biệt kiểu thảm này với kiểu thảm thực vật thường xanh mưa mùa nhiệt đới là sự có mặt của các loài khỏa tử từ độ cao 600m. Rất phổ biến trong khu vực này là loài Thông tre lá dài (Podocarpus neriifolius), Thông nàng – Thông lông gà (Dacrycarpus imbricatus), Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri). Trong kiểu thảm này, ưu thế tuyệt đối về các loài Dẻ thuộc họ Dẻ (Fagaceae) ở một số vị trí Dẻ ưu thế chiếm đến 50-60% cá thể trong quần xã. Trong kiểu thảm này còn có sự có mặt của một số loài thuộc họ Thích (Aceraceae), một số loài Chẹo thuộc chi Chẹo (Engelhardtia) họ Óc chó (Juglandaceae); loài Chắp tay (Symingtonia populnea) thuộc họ Sau sau (Hamamelidaceae). Nhiều loài thuộc chi Eurya, Adinandra, Camellia, Godonia, Vối thuốc-Chò sót (Schima wallichii) thuộc họ Chè (Theaceae); dưới tán rừng cũng chỉ ở đai này mới gặp loài Trúc gai (Sinarundinaria griffithiana) có cá thể nhiều, những nơi sáng chiếm ưu thế tuyệt đối. Cũng trong kiểu thảm này gặp nhiều loài gỗ có giá trị: Giổi lá nhẵn (Michelia faveolata), Giổi găng (Paramichella baillonii) họ Mộc lan (Magnoliaceae), Sến (Madhuca pasquieri) họ Hồng xiêm (Sapotaceae). Tại khu vực đèo Sa Mù, dưới tán kiểu thảm này ở độ cao 1.200 m có gặp loài Lan hài (Paphiopedilum amabile) có số lượng cá thể khá, là loài quý hiếm.
2.2.2. Thảm thực vật thứ sinh
Tại Khu BTTN Bắc Hướng Hóa ,thảm thực vật đai thấp dưới 600 m và đai cao 600 m trở lên phân bố không đồng nhất và ít nhiều đã bị sự tác động của con người như canh tác nương rẫy, thể hiện rõ ở đai thấp dưới 600 m, tiếp đến là khai thác gỗ và lâm sản khác. Ở đai cao từ 600 m trở lên ít bị tác động bởi canh tác nương rẫy. Một số nơi thảm thực vật nguyên sinh bị hủy diệt do chất độc hóa học (trước năm 1975) và một số nơi khác là những căn cứ quân sự (nơi đóng quân, hầm hào, lô cốt). Đó là nguyên dân dẫn đến thảm thực vật nguyên sinh bị mất đi. Cây gỗ, cây bụi, cây thảo tái sinh phát triển trở lại tạo nên các thảm thực vật thứ sinh. Tùy thuộc vào mức độ tác động nhiều hay ít mà thảm thực vật thứ sinh có những nét đặc trưng về ngoại mạo, về cấu trúc, về thành phần loài thực vật.
a. Rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy
Phần lớn phân bố từ độ cao 600 m trở xuống. Khác với vùng núi phía Bắc và các vùng khác; Tại khu vực Khu BTTN Bắc Hướng Hóa chỉ có dân tộc Vân Kiều với đân số ít; sống ở các khu vực thấp ven suối; nương rẫy canh tác cũng không xa bản. Trình độ dân trí thấp, chưa biết sản xuất hàng hóa: Canh tác nương rẫy chỉ là lúa, ngô, nhằm giải quyết nhu cầu lương thực tại chỗ nên rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy không nhiều, vùng thấp quanh khu vực bản làng. Những khu vực sau canh tác nương rẫy, được bỏ hoang từ 8-10 năm, rừng thứ sinh hình thành. Cấu trúc và thành phần loài thực vật cũng như hình thái ngoại mạo khác biệt rõ rệt so với rừng nguyên sinh. Thường không có tầng tán rõ rệt.
Tầng 1 (tầng ưu thế sinh thái). Tầng này với các cây gỗ ưa sáng phát triển trở lại từ chồi hay hạt, cùng tuổi có chiều cao dao động từ 8-10 m, đường kính dao động từ 10-15 cm. Phổ biến ở tầng này là các loài Bời lời chi Bời lời (Litsea), Kháo (Machilus), Nang trứng (Lindera) họ Long não (Lauraceae), một số loài chi Ba soi (Macaranga spp.), chi Ba bét (Mallotus spp.), chi Sòi tía (Sapium spp.), chi Bi điền (Bridelia spp.), Vạng trứng (Endospermum sinensis) thuộc họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae). Một hai loài Trám chi Canarium; Ba gạc lá xoan (Euodia melifolia), Bưởi bung (Acronychia pedunculata) họ Cam chanh (Rutaceae), Ngát lông (Gironniera subaequalis), Hu đay (Trema orientalis), Sếu (Centis sinensis) họ Sếu (Ulmaceae). Một số loài họ Đậu (Fabaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Những khu vực ẩm là các loài thuộc chi Sung vả (Ficus) họ Dâu tằm (Moraceae).
Tầng 2 (tầng gỗ nhỏ cây bụi). Có chiều cao 5-7 m. Thường gặp các loài thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), chi Chè (Camellia), chi Súm (Eugenia) họ Chè (Theaceae). Một số loài chi Cò ke (Grewia) họ Đay (Tilliaceae).
Tầng 3 (tầng cây bụi dưới tán). Tầng này không dày rậm, thường gặp một số loài họ Mua (Melastomataceae), họ Cà phê (Rubiaceae), chi Lồng đèn (Clerodendron) họ Cỏ doi ngựa (Verbenaceae), cây Lụi (Rapis excelsa) họ Cau dừa (Arecaceae), có nơi có số lượng cá thể nhiều.
Tầng 4 (tầng cỏ quyết). Trong tầng này của rừng thứ sinh gặp rất ít các loài dương xỉ. Phổ biến hơn là các họ Gừng (Zingiberaceae); các loài Môn ráy họ Môn ráy (Araceae). Những nơi có ánh sáng nhiều, gặp một số loài cỏ họ Hòa thảo (Poaceae), nơi ẩm có thể gặp một số loài họ Cà phê (Rubiaceae) chi Cỏ vừng (Hydeotis), một số loài thuộc họ Ô rô (Acanthaceae) chi Staurogyne và chi Strobilanthes.
Nét đặc trưng của rừng thứ sinh sau nương rẫy là hệ dây leo đặc biệt dây leo gỗ rất ít. Tầng cỏ quyết đơn điệu, nghèo nàn, độ phủ tầng này rất thấp. Tầng bì sinh (phong lan, dương xỉ sống bám) hầu như không có; có lẽ do độ ẩm thấp và chưa đủ thời gian cho những loài bì sinh, dương xỉ hay phong lan phát triển trở lại.
b. Trảng cây bụi, cỏ cao
Kiểu thảm này có diện tích đáng kể trong khu vực Khu BTTN Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Phân bố ở đai thấp dưới 600 m và trên 600 m. Thảm này chưa có những nghiên cứu sâu về nguyên nhân hình thành kiểu thảm này, đặc biệt là những diện tích bị rải chất diệt cỏ (trước 1975). Qua khảo sát tại một số khu vực chúng tôi thấy có 4 nguyên nhân:
1. Phát nương làm rẫy
2. Cháy rừng
3. Chất độc hóa học (trước 1975)
4. Xây dựng căn cứ quân sự trong chiến tranh.
Bốn nguyên nhân trên đã làm mất đi thảm thực vật nguyên sinh: Ở đai thấp (dưới 600 m) là rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới, đai cao (từ 600 m trở lên) là rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp; diễn thế rừng thứ sinh diễn ra khi đất nương rẫy được bỏ hoang, đất sau cháy rừng và những diện tích rừng bị hủy diệt do chất độc hóa học.
Nguyên nhân làm mất thảm thực vật nguyên sinh là khác nhau nhưng thảm thực vật thứ sinh: Trảng cây bụi, cỏ cao có những đặc trưng hình thái và cấu trúc ngoại mạo giống nhau ở cả đai cao và đai thấp.
Đặc trưng của kiểu thảm thứ sinh trảng cỏ, cây bụi cao là các loài cỏ cao thuộc họ Hòa thảo (Poaceae): Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Lách (Saccharum spontaneum), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Cỏ Lau (Imperata conferta). Cấu trúc đơn điệu, những loài cỏ cao có chiều cao từ 1-2 m, độ phủ đạt 70-80%, rất ít những khoảng trống, rải rác có những cụm cây bụi, cây gỗ nhỏ, những loài ưa sáng cao 5-8 m.Thành phần cây bụi có sự khác biệt ít nhiều phụ thuộc vào nguyên nhân làm mất rừng nguyên sinh và kiểu thảm nguyên sinh vốn có tại đó.
Ở những khu vực thấp (dưới 600 m), đất sau nương rẫy bỏ hoang, trảng cây bụi cỏ cao là trạng thái bắt đầu của diễn thế thứ sinh. Cây bụi cỏ cao phát triển nhanh, ưu thế là những cây ưa sáng phát triển nhanh: Hu đay (Trema orientalis; Trema cannabina), Ba soi (Macaranga spp.), Ba bét (Mallotus spp.). Một số loài Bời lời chi Bời lời (Litsea), Vối thuốc (Schima wallichii), Ba gạc lá xoan (Euodia melifolia), Bưởi bung (Acronychia paniculata), Trám (Canarium spp.), Vạng trứng (Endospermum sinensis), một số loài họ Dẻ (Fagaceae) và do đất ẩm xốp, Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ lau (Imperata conferta) phát triển mạnh, tạo nên các bụi, cụm lớn độ phủ cao. Có nơi độ phủ cao đạt tới 70-80%.
Những diện tích rừng nguyên sinh bị rải chất độc hóa học trước đây và sau đó cháy đi cháy lại nhiều lần: ưu thế tuyệt đối thuộc những loài cỏ cao họ Hòa thảo (Poaceae) Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Lau (Imperata conferta) phát triển kém hơn, cằn cỗi, cao 1-1,5 m, rải rác có cây bụi gỗ nhỏ, thường là những loài chịu khô, chịu cháy, sống trên đất thoái hóa nghèo mùn. Phổ phiến là các loài họ Dẻ (Fagaceae), họ Óc chó (Juglandaceae), họ Chè (Theaceae), họ Nhựa ruồi (Aquifoliaceae), một số loài họ Long não (Lauraceae), họ Côm (Eleocarpaceae).
c. Trảng thứ sinh tre nứa (Trúc sặt) phân bố ở độ cao 600 trở lên
Ở độ cao 700-1.200 m có một diện tích khá nhiều trảng thứ sinh Trúc sặt (Arundiunria peteloti). Cây cao từ 3-5 m, có mật độ khá dầy, mọc tản (không hình thành bụi cụm), ưu thế tuyệt đối 60-70% độ phủ. Rải rác có cây gỗ thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Chè (Theaceae), họ Bồ đề (Styraceae), họ Nhựa ruồi (Aquifoliaceae), họ Côm (Eleocarpaceae), một hai loài họ Mộc lan (Magnoliaceae), họ Thích (Aeraceae). Tuy nhiên, cây gỗ trong kiểu trảng này thưa thớt. Kiểu trảng thứ sinh này rất đặc trưng, thường phân bố ở độ cao từ 800-500 m, gặp ở Ba Vì, Tam Đảo, Phan Xi Phăng. Có lẽ do một tác động nào đó (cháy rừng, chất độc hóa học), làm cho thảm thực vật rừng ẩm thường xanh á nhiệt đới núi thấp bị mất đi. Loài Trúc sặt (Arundinaria petelotii) – một loài thuộc họ Hòa thảo (Poaceae) – ưa sáng, thân ngầm lan nhanh, phát triển mạnh, ưu thế tuyệt đối nhờ sức cạnh tranh đã chiếm lĩnh nhanh chóng diện tích rừng nguyên sinh á nhiệt đới núi thấp bị mất. Cây gỗ, cây bụi, tái sinh phát triển chậm, sức cạnh tranh kém cũng bị loại, tạo nên kiểu trảng thứ sinh Trúc sặt gần như thuần loài, dầy đặc, độc đáo ổn định.
d. Trảng cỏ cây bụi thấp
Trên những vùng đất bằng chân núi, gần khu vực bản làng, những diện tích canh tác nương rẫy diễn ra nhiều năm, đất bạc màu, tầng đất mỏng do bị xói mòn. Đây cũng là nơi chăn thả, kiếm ăn của gia súc, sự giẫm đạp, tác động thường ngày của gia súc đã hạn chế sinh trưởng của cây. Nên tại những khu vực này chỉ còn những loài cây bụi cỏ thấp phát triển được trên nền đất thoái hóa nghèo dinh dưỡng. Tùy theo mức độ thoái hóa của tầng đất mặt và mức độ tác động ít nhiều của gia súc mà thành phần cây bụi, cây thảo là loài này hay loài khác và ưu thế thuộc về cây bụi hay cây thảo.
Những khu vực đất chưa bị thoái hóa nặng thành phần cây bụi phong phú: thường gặp các loài cây bụi họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ô rô (Acanthaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) và nhiều loài Mua, chi Melastoma, họ Mua (Melastomataceae). Một số loài cỏ cao thường gặp trong kiểu thảm này thuộc chi Cỏ đắng (Paspalum), cỏ Tranh (Imperata cylindrica), cỏ Sả (Cymbopogon spp.), cỏ Bông (Eragrostis spp.), cỏ Rác (Isachne spp.), cỏ Sâu róm (Sertaria spp.) cao tới 70-80 cm.
Ở những khu vực đất thoái hóa nặng, đất bị lèn chặt do gia súc giẫm đạp thường xuyên. Tầng cỏ thấp, chỉ cao 10-20 cm và có thể thấp hơn, thường gặp những loài cỏ thấp chi cỏ Chỉ (Digitaria spp.), cỏ Gà (Cynodon dactylon), cỏ May (Chrysopogon aciculatus), cỏ Đắng (Paspalum spp.). Cây bụi thấp: họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), cây Đuôi chuột (Stachytarpheta jamaicensis), một hai loài Trinh nữ (Mimosa sp.), một vài loài họ Hoa mõm chó (Scrophuliaceae) chi Lindernia, thường gặp loài Cam thảo Nam (Seoparia dulcis).
Những khu vực đất chua, cây bụi ưu thế là các loài Mua (Melastoma spp.) và cỏ thấp. Đơn điệu về cấu trúc, nghèo nàn về thành phần. Một vài loài cỏ thấp thuộc chi cỏ Đắng (Paspalum spp.) hay thuần loại cỏ May (Chrysopogon aciculatus), cỏ gà (Cynodon dactylon), cỏ Chỉ (Digitaria spp.).
2.3. Thành phần loài thực vật
Kết quả điều tra ghi nhận được 920 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 518 chi và 130 họ. Trong số đó có 17 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam và 23 loài trong Sách Đỏ Thế giới (IUCN, 1996). Về giá trị sử dụng, đã thống kê được 125 loài cây cung cấp gỗ, 161 loài cây làm thuốc, 44 loài cây làm cảnh và 89 loài cây làm thực phẩm.
Bảng 2.2. Thành phần thực vật Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bắc Hướng Hóa
Ngành thực vật
|
Họ
|
Chi
|
Loài
|
Ngành Thông đất (Lycopodiophyta)
|
2
|
2
|
6
|
Equisetophyta – Ngành Mộc tặc
|
1
|
1
|
1
|
Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta)
|
11
|
31
|
68
|
Ngành Thông (Pinophyta)
|
4
|
6
|
9
|
Ngành Mộc lan (Magnoliophyta)
|
112
|
478
|
836
|
- Lớp Mộc lan (Magnoliopsida)
|
91
|
388
|
707
|
- Lớp Hành (Liliopsida)
|
21
|
90
|
129
|
Tổng số
|
130
|
518
|
920
|
Kết quả ở Bảng 2.2 cho thấy, 13 họ có tính đa dạng cao về số lượng chi và loài, trong số đó, 12 họ có số chi từ 7-20 chi. Họ Cà phê (Rubiaceae), họ Hòa thảo (Poaceae), họ Lan (Orchidaceae) có số lượng chi cao nhất từ 16-20 chi. Họ Long não (Lauraceae) và họ Cam chanh (Rutaceae) có số lượng lớn hơn 10 chi (14 và 11). Còn 7 họ khác: họ Mua (Melastomataceae); Dâu tằm (Moraceae); Bồ hòn (Sapindaceae); Chè (Theaceae); Gai (Urticaceae); Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) và Cau dừa (Arecaceae) có số chi dao động từ 7 đến 9 chi (Gagnepain, 1909-1950;Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, 2001).
Bảng 2.3. Các chi và loài có tính đa dạng cao ở Khu BTTN Bắc Hướng Hóa
|
Họ
|
Số lượng chi
|
Số lượng loài
|
Tên khoa học
|
Tên Việt Nam
|
|
NGÀNH HẠT KÍN – ANGIOSPERMAE
Lớp hai lá mầm - Dicotyledones
|
|
|
1
|
Lauraceae
|
Long não
|
14
|
24
|
2
|
Melastomataceae
|
Mua
|
9
|
14
|
3
|
Moraceae
|
Dâu tằm
|
7
|
24
|
4
|
Myrsinaceae
|
Đơn nem
|
3
|
19
|
5
|
Rubiaceae
|
Cà phê
|
16
|
24
|
6
|
Rutaceae
|
Cam chanh
|
11
|
19
|
7
|
Sapindaceae
|
Bồ hòn
|
9
|
10
|
8
|
Theaceae
|
Chè
|
7
|
13
|
9
|
Urticaceae
|
Gai
|
9
|
14
|
10
|
Verbenaceae
|
Cỏ roi ngựa
|
8
|
16
|
|
Lớp một lá mầm – Monocotyledones
|
|
|
11
|
Arecaceae
|
Cau dừa
|
8
|
12
|
12
|
Orchidaceae
|
Lan
|
18
|
26
|
13
|
Poaceae
|
Hoà thảo
|
20
|
23
|
5 họ có số lượng trên 20 loài gồm Long não (Lauraceae) 24 loài; Dâu tằm (Moraceae) 24 loài; Cà phê (Rubiaceae) 24 loài; Lan (Orchidaceae) 26 loài; Hoà thảo (Poaceae) 23 loài; các họ: Mua (Melastomataceae), Đơn nem (Myrsinaceae), Cam chanh (Rutaceae), Gai (Urticaceae), Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) có xấp xỉ 20 loài.
Những số liệu trong báo cáo này mới chỉ phản ánh phần nào tính đa dạng thực vật khu vực Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Với diện tích lớn xấp xỉ 40.000 ha, đa dạng về địa hình, địa chất, khí hậu, hệ thực vật chưa bị tác động nhiều, chắc chắn hệ thực vật ở khu vực này có số lượng taxon bậc chi, loài và họ sẽ có số lượng cao hơn.
Tìm hiểu so sánh về cấu trúc thành phần loài thực vật tại Khu BTTN Bắc Hướng Hóa với các khu bảo tồn khác trong khu vực Bắc Trường Sơn như Khu BTTN ĐaKrông, VQG Bạch Mã (Bảng 2.4) nhận thấy có sự khác biệt ít nhiều về số lượng các taxon (bậc họ; bậc chi; bậc loài). Cả 3 khu bảo tồn này đều có những nét tương đồng về cấu trúc thành phần loài, có tới 90% các họ giống nhau, còn sự khác biệt về mặt số lượng các loài có thể lý giải là do khác nhau về mức độ nghiên cứu.
Bảng 2.4. So sánh tính đa dạng thực vật Bắc Hướng Hóa với các khu bảo tồn khác trong vùng
|
Họ
|
Chi
|
Loài
|
BHH
|
Đak
|
BM
|
BHH
|
Đak
|
BM
|
BHH
|
Đak
|
BM
|
Ngành Thụng đất (Lycopodiophyta)
|
2
|
2
|
2
|
2
|
2
|
3
|
6
|
3
|
16
|
Ngành Mộc tặc (Equisetophyta)
|
1
|
0
|
1
|
1
|
0
|
1
|
1
|
0
|
1
|
Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta)
|
11
|
11
|
24
|
31
|
15
|
68
|
68
|
30
|
162
|
Ngành Hạt trần (Gymnospermae)
|
4
|
3
|
7
|
6
|
6
|
11
|
9
|
10
|
20
|
Ngành Hạt kớn (Angiospermae)
|
122
|
114
|
156
|
487
|
505
|
669
|
836
|
1.009
|
1.448
|
- Lớp hai lỏ mầm (Dicotyledones)
|
91
|
93
|
130
|
388
|
404
|
411
|
707
|
857
|
1.103
|
- Lớp một lỏ mầm (Monocotyledones)
|
21
|
21
|
26
|
90
|
101
|
158
|
129
|
152
|
345
|
|
130
|
130
|
190
|
518
|
528
|
752
|
920
|
1.055
|
1.547
|
Ghi chú: BHH: Bắc Hướng Hóa, Đak: ĐaKrông, BM: Bạch Mã.
Giá trị về nguồn gen quý hiếm
Kết quả nghiên cứu bước đầu đã cho thấy tại Khu BTTN Bắc Hướng Hóa có nhiều loài thực vật cùng nguồn gen quý hiếm có giá trị bảo tồn, các loài nguy cấp cần được bảo vệ, có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và của Thế giới (Bảng 2.5, 2.6).
Bảng 2.5. Danh sách các loài thực vật quý hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và Thế giới
|
Tên khoa học
|
Tên Việt Nam
|
Tình trạng
|
SĐVN (1996)
|
IUCN (1994)
|
1
|
Cephalotaxus manii Hook. f.
|
Đỉnh tùng
|
R
|
VU
|
2
|
Dacrycarpus imbricatus (Bl.) de Laub.
|
Thông nàng
|
|
CR
|
3
|
Podocarpus pilgeri Foxw.
|
Thông tre lá ngắn
|
R
|
|
4
|
Podocarpus neriifolius D.Don
|
Thông tre lá dài
|
|
CR
|
5
|
Nageia wallichiana (C. Presl.) O. Kuntze
|
Kim giao núi đất
|
V
|
CR
|
6
|
Alstonia scholaris (L.) R. Br.
|
Mò cua
|
|
CR
|
7
|
Amoora dasyclada (How. & Chen) C. V. Wu
|
Gội đỏ
|
|
VU
|
8
|
Aquilaria crassna Pierre ex Lec
|
Dó trầm
|
E
|
CR
|
9
|
Ardisia silvestris Pit.
|
Lá khôi
|
V
|
|
10
|
Chukrasia tabularis A. Jus.
|
Lát hoa
|
K
|
CR
|
11
|
Cinnamomum balansae Lec.
|
Vù hương
|
R
|
EN
|
12
|
Cinnamomum parthenocylon Meissn.
|
Cửu mộc
|
K
|
DD
|
13
|
Coscinium fenestratum (Gagn.) Colebr.
|
Dây vằng đắng
|
K
|
|
14
|
Cratoxylon cochinchinensis (Lour.) Bl.
|
Thành ngạnh Nam
|
|
CR
|
15
|
Croton touranensis Gagn.
|
Cu đèn Đà nẵng
|
|
VU
|
16
|
Dalbergia entadoides Pierre ex Gagn.
|
Bàm bàm
|
|
DD
|
17
|
Dipterocarpus grandiflorus Blco
|
Dầu hoa to
|
|
CR
|
18
|
Dipterocarpus hasseltii Bl.
|
Dầu
|
|
CR
|
19
|
Dipterocarpus kerrii King
|
Dầu cà luân
|
|
CR
|
20
|
Engelhartia spicata Lesch. ex Bl.
|
Chẹo bông
|
|
CR
|
21
|
Erythrophleum fordii Oliv.
|
Lim
|
|
EN
|
22
|
Knema globularia (Lamk.) Warb.
|
Máu chó cầu
|
|
CR
|
23
|
Mangifera foetida Lour.
|
Xoài hôi
|
|
CR
|
24
|
Melientha suavis Pierre
|
Rau sắng
|
K
|
|
25
|
Rauvolfia cambodiana Pierre ex Pit
|
Ba gạc căm bốt
|
T
|
|
26
|
Rhodoleia championii Hook.f. (Rhoiptelea ??)
|
Hồng quang
|
V
|
CR
|
27
|
Smilax glabra Roxb.
|
Thổ phục linh
|
V
|
|
28
|
Sindora tonkinensis A. Chev. ex K. & S. S. Lars.
|
Gõ dầu
|
V
|
VU
|
29
|
Anoectochilus cetaceus Blume
|
Lan gấm
|
E
|
|
30
|
Calamus poilanei Conr.
|
Mây bột
|
K
|
|
31
|
Dendrobium amabile (Lour.) O'brien
|
Thủy tiên hường
|
R
|
|
32
|
Livistona tonkinensis Magalon
|
Kè Bắc
|
|
DD
|
Ghi chú: Sách Đỏ Việt Nam (1996): Endangered (E): Đang bị đe dọa tuyệt chủng; Vulnerable (V): Sắp bị đe dọa tuyệt chủng; Rare (R): Loài hiếm; Threatened (T): Bị đe dọa tuyệt chủng; Insufficiently know (K): Thiếu thông tin chính xác để xếp vào các cấp đe dọa trên.
Bảng 2.6. Số lượng các loài thực vật quý hiếm theo các mức độ đe dọa ở KBTTN Bắc Hướng Hóa
|
CR
|
EN
|
VU
|
DD (K)
|
R
|
T
|
Tổng
|
%
|
IUCN (1996)
|
14
|
2
|
3
|
4
|
|
|
23
|
2,5
|
SĐVN (2007)
|
|
2
|
5
|
5
|
4
|
1
|
17
|
1,8
|
2.3. Khu hệ động vật
Khu hệ động vật hoang dã khu vực Bắc Hướng Hóa là một phần của khu hệ động vật Bắc trường Sơn hay một phần của khu hệ động vật vùng núi thấp Bắc Trung Bộ Việt Nam (Timmins R.J. et al., 1999 ; Dặng Huy Huỳnh và nnk,2009 ; Mai Đình Yên, 1978). Các đặc trưng của khu hệ động vật hoang dã ở khu vực này còn tiềm ẩn nhiều bất ngờ khoa học, nhưng là khu vực có tinh đa dạng sinh học cao, là nơi giao lưu của khu hệ động vật giữa Tây và Đông Trường Sơn, giữa Bắc và Nam Trường Sơn. Tại khu vực này cũng đã ghi nhận có sự di cư theo mùa của động vật, đặc biệt là các loài thú lớn như bò tót có sự thay đổi tập tính kiếm ăn, chuyển dịch lên đới cao hơn tại Voi mẹp và Pa Thiên với quần thể 4-5 cá thể và 7-9 cá thể. (Nguyên nhân có thể do bị quấy nhiễu và do biến đổi khí hậu). Các kết quả nghiên cứu cũng khẳng định ở Khu BTTN Bắc Hướng Hóa hiện còn một quần thể nhỏ Sao la (khoảng 5-6 cá thể) hoạt động chủ yếu tại khu vực giáp ranh huyện Lệ Thủy, Quảng Bình (Mahood S.P., Tran Van Hung, 2008 ; Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Ngọc Tuấn, 2011). Thuộc Khu Bảo tồn còn có khu hệ động vật của các hồ trên núi cao chưa được nghiên cứu.
2.3.1. Khu hệ thú
Tổng số 42 loài thú (không kể Dơi) thuộc 17 họ và 6 bộ đã được kiểm kê. Trong đó có 26 loài đã chắc chắn phát hiện có mặt trong khu vực và 16 loài được ghi nhận qua thông tin phỏng vấn. Trong số đó, loài Voọc Hà Tĩnh, loài đặc hữu của Việt Nam lần đầu tiên được phát hiện ở Khu BTTN Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.(Geissmam T., Vu Ngoc Thanh,1998 ; Phạm Nhật,2002).
Trong số 26 loài phát hiện chắc chắn, 11 loài có tên trong Sách Đỏ các loài bị đe dọa của IUCN (IUCN, 1996) ở các cấp bị đe dọa, gần bị đe dọa hoặc chưa đủ thông tin để xếp vào các nhóm loài bị đe dọa. Mười một trong số này có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (Bộ KH&CN, Viện KH&CN Việt Nam, 2007), bao gồm 5 loài nguy cấp: Voọc vá chân nâu, Voọc Hà Tĩnh, Vượn đen má trắng, Gấu ngựa và Sao la; 6 loài sắp nguy cấp là Tê tê Java, Khỉ mặt đỏ, Rái cá vuốt bé, Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Bò tót và Sơn dương (Bảng 2.7).
Bảng 2.7. Các loài thú bị đe dọa ở cấp quốc gia và quốc tế hiện có ở Khu BTTN Bắc Hướng Hóa, Quảng Trị (2010)
TT
|
Tên phổ thông
|
Tên khoa học
|
Cấp đe dọa
|
Quốc gia
|
Thế giới
|
1
|
Tê tê Java
|
Manis javanica
|
V
|
NT
|
2
|
Khỉ mặt đỏ
|
Macaca arctoides
|
V
|
VU
|
3
|
Voọc vá chân nâu
|
Pygathrix nemaeus
|
E
|
EN
|
4
|
Voọc Hà Tĩnh
|
Semnopithecus laotum hatinhensis
|
E
|
DD
|
5
|
Vượn đen má trắng
|
Nomascus leucogenis
|
E
|
DD
|
6
|
Gấu ngựa
|
Ursus thibetanus
|
E
|
VU
|
7
|
Rái cá vuốt bé
|
Aonyx cinerea
|
V
|
NT
|
8
|
Mang lớn
|
Megamuntiacus vuquangensis
|
V
|
|
9
|
Sơn dương
|
Naemorhedus sumatraensis
|
V
|
VU
|
10
|
Sao la
|
Pseudoryx nghetinhensis
|
E
|
EN
|
11
|
Bò tót
|
Bos gaurus
|
V
|
VU
|
12
|
Thỏ vằn
|
Nesolagus timminsi
|
|
DD
|
Ghi chú: Cấp đe dọa quốc gia: E: Nguy cấp; V: Sắp nguy cấp theo Bộ KH&CN, Viện KH&CN Việt Nam (2007).
Cấp đe dọa toàn cầu: EN: Nguy cấp; VU: Sắp nguy cấp; NT: Gần bị đe dọa; DD: Chưa đủ dữ liệu theo IUCN (1996).
2.3.2. Khu hệ chim
Tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bắc Hướng Hóa , theo kết quả khảo sát đã phát hiện 171 loài chim, thuộc 14 bộ và 32 họ. Trong số đó có 18 loài có giá trị bảo tồn (Bảng 2.8), 9 loài bị đe dọa mang tính toàn cầu được ghi trong Sách Đỏ Thế giới (BirdLife International, 2001) và 12 loài ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (Bộ KH&CN, Viện KH&CN Việt Nam, 2007). Trong số 18 loài, có 7 loài là những loài có vùng phân bố hẹp (vùng phân bố toàn cầu nhỏ hơn 50.000 km2), có 2 loài đặc hữu cho Việt Nam (Gà lôi lam mào trắng và Gà so Trung Bộ).
Danh lục 171 loài chim chỉ là kết quả bước đầu cho khu hệ chim Bắc Hướng Hóa, các đợt khảo sát cho tới thời điểm này mới chỉ tập trung ở các đai cao dưới 1.000 m. Khác với khu hệ chim ở các vùng khác, một số loài gặp với số lượng khá lớn như: Gầm ghì lưng nâu, Cu xanh mỏ quặp, Niệc nâu, Yểng, Cành cạch đen, các loài Chào mào và các loài Cu rốc. Đây là các loài chim chủ yếu ăn quả. Điều đó chứng tỏ, chất lượng rừng hoặc số lượng các loài cây rừng có quả làm thức ăn cho chim đa dạng và phong phú. Các loài chim Gầm ghì lưng nâu, Yểng và Niệc nâu là loài chỉ thị sinh học cho thấy chất lượng rừng ở khu vực còn tốt. Cũng như vậy, các loài chim kiếm ăn ở tầng giữa và dưới tán rừng gặp với số lượng lớn như: Khướu xám, Khướu đầu trắng, Khướu má xám và nhiều loài khướu nhỏ khác là những loài chỉ thị sinh học, chứng tỏ chất lượng tầng tán rừng ở Khu BTTN Bắc Hướng Hóa vẫn còn nguyên vẹn.
Bảng 2.8. Các loài chim có giá trị bảo tồn có ở Khu BTTN Bắc Hướng Hóa, Quảng Trị (2010)
|
Tên tiếng Việt
|
Tên khoa học
|
IUCN (2004)
|
SĐVN (2007)
|
|
|
2. |
Gà so Trung Bộ
|
Arborophila merlini
|
RRS
|
En
|
|
3.
|
Gà lôi lam mào trắng
|
Lophura edwardsi
|
EN, RRS
|
En
|
|
4.
|
Gà lôi hông tía
|
L. diardi
|
NT
|
T
|
|
5.
|
Trĩ sao
|
Rheinardia ocellata
|
VU
|
T
|
|
6.
|
Gõ kiến xanh cổ đỏ
|
Picus rabieri
|
NT, RRS
|
|
|
7.
|
Thầy chùa đít đỏ
|
Megalaima lagrandieri
|
RRS
|
|
|
8.
|
Niệc nâu
|
Anorrhinus tickelli
|
NT
|
T
|
|
9.
|
Hồng hoàng
|
Buceros bicornis
|
NT
|
T
|
|
10.
|
Bồng chanh rừng
|
Alcedo hercules
|
NT
|
T
|
|
11.
|
Sả hung
|
Halcyon coromanda
|
|
R
|
|
12.
|
Bói cá lớn
|
Megaceryle lugubris
|
|
T
|
|
13.
|
Diều cá bé
|
Ichthyophaga humilis
|
NT
|
|
|
14.
|
Đuôi cụt bụng vằn
|
Pitta elliotii
|
|
T
|
|
15.
|
Mỏ rộng xanh
|
Psarisomus dalhousiae
|
|
T
|
|
16.
|
Chim khách đuôi cờ
|
Temnurus temnurus
|
|
T
|
|
17.
|
Khướu đầu xám
|
Garrulax vassali
|
RRS
|
T
|
|
18.
|
Khướu mỏ dài
|
Jabouilleia dangjoui
|
VU, RRS
|
T
|
|
19.
|
Chích chạch má xám
|
Macronous kelleyi
|
RRS
|
|
|
1.
Ghi chú: Cấp đe dọa quốc gia: E: Nguy cấp; V: Sắp nguy cấp; R: Loài hiếm; T: Bị đe dọa; R: Loài hiếm theo Sách Đỏ Việt Nam (Bộ KH&CN, Viện KH&CN Việt Nam (2007).
Cấp đe dọa toàn cầu: EN: Nguy cấp; VU: Sắp nguy cấp; NT: Gần bị đe dọa; DD: Chưa đủ dữ liệu theo IUCN (2004). En: Loài đặc hữu của Việt Nam; RRS: Loài có vùng phân bố hẹp.
2.3.3. Khu hệ Bò sát và Ếch nhái
Khu hệ Bò sát và Ếch nhái khu vực Khu BTTN Bắc Hướng Hóa theo kết quả khảo sát thực địa do các chuyên gia của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh Vật và Viện Động vật St. Petersburg tiến hành trong những năm gần đây cho thấy có tính đa dạng sinh học cao. Tổng số 61 loài Bò sát và Ếch nhái đã được phát hiện, trong số đó 30 loài Ếch nhái thuộc 5 họ và 1 bộ; 31 loài Bò sát thuộc 8 họ và 2 bộ. Kết quả nghiên cứu cũng ghi nhận mới một số loài cho Khu Bảo tồn: 2 loài Ếch cây thuộc giống Theloderma spp., Ếch cây Hymalayan (Rhacophorus bipunctatus), Rắn ri cá (Homalogis buccata), Rắn khuyết (Lycodon ruhstrati), Rắn lục cườm (Trimeresurus mucrosquamatus), Rắn cạp nia thường (Bungarus bungaroides), v.v... Ngoài ra, cũng đã phát hiện 3 loài có thể là loài mới cho khoa học thuộc các giống: Nhái cây (Philautus), Rắn sãi (Amphiesma) và Rắn khiêm (Oligodon). Về giá trị bảo tồn, chưa có thống kê cụ thể, nhưng nhận thấy có nhiều loài quý hiếm trong Sách Đỏ Việt Nam và Thế giới như: Tắc kè, Rồng đất, Cạp nia Nam, Cạp nia thường, Rắn lục Volgel, Rùa đất Sêpôn, Cóc rừng, Ếch gai sần, v.v... ( Nguyễn Văn Sáng,Hồ Thu Cúc, 1996; Hồ Thu Cúc , 2005).
Tài liệu tham khảo chính
1. BirdLife International and FIPI, 2001. Sourcebook of Existing and Proposed Protected Areas in Vietnam. Hanoi.
2. Bộ KH&CN, Viện KH&CN Việt Nam, 2007. Sách đỏ Việt Nam. NXB. Khoa học Tự nhiên và CN.
3. Gagnepain, F., 1909-1950. Flore Génerale de l’Indochine. 1-7. Paris.
4. Geissmann, T. and Vu Ngoc Thanh, 1998. Preliminary Results of a Primite Survey in North-eastern Vietnam, with Special Reference to Gibbons. Unpublished report to Institute for Zoology, Hanover Zoological College.
5. Hồ Thu Cúc, Nicolai Orlop, Amy Lathrov 2005. Góp phần nghiên cứu khu hệ Ếch nhái (Amphibia) và Bò sát (Reptilia) của khu bảo tồn thiên nhiên Pia Oắc, tỉnh Cao Bằng.Tạp chí Sinh hoc,27(4a):95-102.
6. IUCN, 1996. IUCN Red List of Threatenes Animals. Gland, Smitzeland: IUCN – The World Conservation Union.
7. Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Ngọc Tuấn, 2011. Điều tra đánh giá hiện trạng quần thể và đề xuất biện pháp bảo tồn hai loài Bò tót (Bos gaurus) và Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) ở Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, Quảng Trị. Báo cáo khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường.
8. Đặng Huy Huỳnh, Cao Văn Sung, Lê Xuân Cảnh và Phạm Trọng Ảnh, 2009. Động vật chí Việt Nam. Phần lớp thú. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
9. Mahood, S.P. ,Tran Van Hung, 2008. The Biodiversityof Bac Huong Hoa Nature Reserve, Quang Tri Province, Vietnam. BirdLife International Vietnam Programme.
10. MacKinnon and MacKinnon, 1986. Managing Protected Areasin the Tropics. Gland:IUCN..
11. MacKinnon et.al, 1997. Protected Areas System Review of the Indo-Malayan Realm. Gland, Switzerland.
12. Lekagul và Round ,1991.Mammals of Vietnam. Hanoi.
13. Nghị định 32/2006/NĐ-CP, ký ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
14. Phạm Nhật, 2002. Thú Linh trưởng của Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
15. Võ Quý, 1981. Chim Việt Nam. Hình thái và phân loại. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 393 trang.
16. Võ Quý, Nguyễn Cử, 1999. Danh lục Chim Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
17. Phạm Bình Quyền và nnk.2011. Bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn. NXB Tài nguyên và Môi trường.
18. Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, 1996. Danh lục Bò sát và Ếch nhái Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 264 trang.
19. Đào Văn Tiến, 1985. Khảo sát Thú ở miền Bắc Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
20. Timmins R.J., Đỗ Tước, Trịnh Việt Cường, 1999. Điều tra đánh giá đa dạng sinh họcVQG Phong Nha – Kẻ Bàng. Viện ĐTQHR.
21. Tordoff A,Timmins R.,Smith R.. Mai Kỳ Vinh, 2003. Đánh giá sinh học Khu vực Trung Trường Sơn. WWF. Haf Nooij.
22. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, 2001. Danh lục các loài thực vật Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
23. Thái Văn Trừng, 1978. Thảm thực vật rừng Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
24. UBND tỉnh Quảng Trị, 2005. Kế hoạch Đầu tư Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bắc Hướng Hóa. Đông Hà.
25. Mai Đình Yên, 1978. Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 340 trang.