Cần xác định rõ hơn vấn đề An ninh Môi trường trong Định hướng phát triển bền vững của Việt nam
Bản dự thảo Định hướng PTBV Việt nam giai đoạn 2011 – 2020 trong phần 2.2 có phân tích đến các vấn đề ANMT ở nước ta, tuy nhiên trong các phần mục tiêu, giải pháp, chỉ tiêu,…của Định hướng PTBV lại không hề có nội dung gì về đảm báo ANMT cho PTBV
Nguyễn Đình Hòe, VACNE
1.Cần khẳng định vai trò của An ninh Môi trường đối với Phát triển Bền vững
Khi nhìn từ quan điểm ANMT, sự phát triển kinh tế làm giảm đói nghèo được xem là một chiến lược tốt. Bởi vì rõ ràng là nghèo đói nhiều trường hợp có liên quan chặt chẽ với việc suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái do thiên nhiên cung ứng cho con người. Có thể sai lầm khi xem xét ANMT và phát triển bền vững là đồng nghĩa, mặc dù trên thực tế hai khái niệm này có thể ít nhiều gần gũi.
Phát triển chỉ việc tăng dần sự thịnh vượng của con người và sự mở rộng các cơ hội cho các cá nhân được sống an toàn, mạnh khoẻ và giàu có hơn. An ninh ám chỉ việc không có nguy hiểm, không có đe doạ tiến trình phát triển hay các kết quả của phát triển. Nhưng ANMT cũng có mặt phân biệt : quá trình phát triển có thể trở thành một mối đe dọa cho ANMT trong giới hạn không cố ý - hay không chủ định - thay đổi các cơ chế an ninh hiện có. Trong ngữ cảnh này, một báo cáo của tổ chức hợp tác - phát triển kinh tế Châu Âu (OECD) nawm 1997 có tiêu đề “Chi phí quân sự ở các nước đang phát triển: An ninh và Phát triển” đã rất đúng khi tuyên bố, "an ninh cần thiết cho phát triển", nhưng "cội rễ gây ra bất an thường cũng là phát triển".
Rất khó để thúc đẩy phát triển dưới những điều kiện suy thoái môi trường bất ổn định. Ví dụ, ngày nay các dòng vốn tư nhân đầu tư vào các nước đang phát triển lớn gấp 5 lần nguồn vốn ODA, và do đó chúng trở nên có tác động rất quan trọng đối với quá trình phát triển. Nhưng vốn tư nhân có xu hướng lẩn tránh các vùng môi trường bất ổn định với dịch vụ hệ sinh thái bị suy giảm mạnh. Mặt khác, việc bùng phát các “khiếu kiện đông người” mà nhiều nước gọi là “sự phản kháng của cộng đồng” về môi trường đã tiêu phí không ít thành quả của phát triển và làm chậm quá trình phát triển.
ANMT và PTBV đều hướng đến cùng một đoạn kết tương tự: một điều kiện trong đó các cá nhân và các cộng đồng có sự tiếp cận công bằng và hợp lý những thứ cần thiết để tồn tại và phát triển khỏe mạnh; các bất đồng được giải quyết công bằng; và môi trường được bảo vệ khỏi các hành vi phá hoại của con người, dưới hoàn cảnh đó, các thể chế hỗ trợ an ninh có khả năng thích nghi và ứng phó với thay đổi. Và điều đó cũng làm cho quá trình phát triển không đối xử thô bạo đối với các cơ chế quản lý xung đột, có thể dẫn đến việc phân chia lại quyền lực theo cách có thể dẫn đến xung đột hay bạo lực nghiêm trọng hơn. Trong một thế giới mà xung đột và bạo lực sinh ra như những cơ chế thích ứng, với đầy rẫy những công nghệ mang tính phá hoại cao thì những chiến lược thích ứng này phải được kiểm soát rất cẩn trọng.
2.Đảm bảo An ninh môi trường phải là một chiến lược hành động khẩn cấp
Thời gian hiện nay hơn bao giờ hết đòi hỏi khẩn cấp phải lồng ghép chặt chẽ ANMT với chính sách phát triển, bởi vì ANMT cung cấp sự nhận thức rộng lớn, nhạy bén và tiến hoá về các nguồn bất an ninh môi trường, tính tự nhiên của mối đe doạ và dễ bị đe doạ, và cách thức giảm thiểu những đe dọa đó một cách tốt nhất.
Bản chất ANMT là gắn chặt với sự phát triển của KHCN hiện đại. Mặt trái của KHCN luôn tiềm ẩn các vấn đề gây mất An ninh mà việc sử dụng môi trường như một thứ vũ khí cho chiến tranh, khủng bố hay cạnh tranh không lành mạnh chỉ là việc khai thác mặt trái của KHCN.
Đặc tính của con người là ban đầu chỉ chú ý đến mặt phải, đến cái hay cái tốt của phát minh KHCN, đến khả năng làm lợi của những phát minh hay nghiên cứu phát triển KHCN cho kinh tế hay sức khỏe ngắn hạn của con người. Nhiều doanh nghiệp hay tổ chức sẵn sàng đầu tư cho các nghiên cứu “mặt phải” này và đầu tư cho khả năng ứng dụng nhanh để nhanh chóng thu hồi vốn và có lãi cao. Vì thế người ta chỉ thường phát hiện ra “mặt trái” của KHCN khi những tác động tiêu cực của nó được nhận diện sau nhiều năm được ứng dụng trong thực tế.
Những ví dụ về hóa chất DDT, về CFCs, về giống lúa giàu vitamin A và nhiều giống cây biến đổi gen,… là minh chứng cho một đặc tính của con người là “khả năng phát minh luôn đi trước sự khôn ngoan”.
Tuy nhiên ANMT không chỉ liên quan đến “sở đoản” trên đây của con người, nhiều thế lực không ngại khai thác những sở đoản đó để biến môi trường thành vũ khí gây mất an ninh cho đối thủ cạnh tranh và cho các nước đối địch. Các nước đang phát triển như Việt Nam khó có thể nhận diện ngay những đe dọa ANMT được núp dưới chiêu bài đầu tư phát triển hữu hảo. Việc lập và thẩm định các báo cáo Đánh giá tác động môi trường (ĐTM), báo cáo Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) và phản biện xã hội có thể hỗ trợ cho ANMT rất nhiều thông qua việc nhận diện và tìm giải pháp khắc phục các mặt tiêu cực ( nhiều khi là các tiêu cực tiềm ẩn) của một dự án đầu tư hay một kế hoạch (quy hoạch, chiến lược) đang xem xét. Tuy nhiên không ít trường hợp các báo cáo này được lập và thẩm định không đảm bảo chất lượng, thậm chí còn có ý kiến cho quy định về việc lập các báo cáo ĐTM, ĐMC và phản biện xã hội là làm “cản trở” phát triển.
3. Đã đến lúc ANMT cần được đẩy mạnh nghiên cứu và lồng ghép vào chiến lược và chính sách phát triển bền vững trên cả bình diện quốc gia và địa phương, trước hết cần đưa vấn đề Đảm bảo ANMT cho phát triển bền vững vào mục tiêu của Định hướng PTBV, sau đó trong phần giải pháp thực hiện cần các giải pháp về tổ chức (thành lập Viện nghiên cứu hay Trung tâm nghiên cứu ANMT, vấn đề đào tạo cán bộ về ANMT, vấn đề tổ chức tài chính cho lĩnh vực ANMT, vấn đề lồng ghép ANMT vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH,…)