Gần nửa diện tích tỉnh Long An là vùng đất ngập nước nhiễm phèn Đồng Tháp Mười. Vùng ven biển (miền Hạ) lại thường xuyên khát nước.Tài nguyên đất và nước của Long An đều là những của hiếm đòi hỏi phải sử dụng rất thận trọng và hiệu quả.Phát triển thiếu cân bằng nước, nhất là phải đáp ứng thêm sự chuyển dịch khó đoán định của dân cư và công nghiệp dãn ra từ thành phố Hồ Chí Minh rất có thể đưa Long An đến những thách thức khó quản trị về An ninh môi trường.
Nguyễn Đình Hòe, VACNE

Sông Vàm Cỏ Tây ở Long An (20)
1.Tài nguyên đất và nước
Long An có địa hình đơn giản, tương đối bằng phẳng.Dải đất cao phía đông bắc nối tiếp với địa hình giồng cát cổ phía ven biển (miền Hạ) tạo ra hình vành khăn ôm lấy vùng trũng ngập nước Đồng Tháp Mười phía tây bắc của tỉnh. Hơn một nửa diện tích Long An là đất ngập nước. Khu vực Đồng Tháp Mười địa hình thấp, trũng, chiếm298,243 ha (có tài liệu là (13) 245,357 ha) hoặc 66,4% (có tài liệu là 56,6% (13) ) diện tích tự nhiên toàn tỉnh, thường xuyên bị ngập lụt hàng năm. Vùng Đức Hòa, một phần Đức Huệ, Bắc Vĩnh Hưng, Bắc Mộc Hóa và Bắc Tân Hưng có một số nơi có nền đất tốt, cao ráo, sức chịu tải khá nên việc xử lý nền móng ít phức tạp, còn lại hầu hết các vùng khác đều có nền đất yếu. Theo con nước hàng năm mà ở Đồng tháp Mười có 2 thời kỳ dậy phèn: một vào đầu mùa mưa (tháng 4 đến tháng 7) và một vào cuối mùa mưa (tháng 11 đến tháng 1 năm sau) (11) .
Long An có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt.Nối liền với sông Tiền và hệ thống sông Vàm Cỏ là các kênh dẫn và tiêu nước rất quan trọng trong sản xuất cũng như cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt của dân cư như: Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ Campuchia, qua tỉnh Tây Ninh chảy vào địa phận Long An. Hồ Dầu Tiếng đưa xuống thêm 18,5 m3/s bổ sung nước tưới cho các huyện Đức Huệ, Đức Hòa, Bến Lức và hạn chế quá trình xâm nhập mặn của tuyến Vàm Cỏ Đông qua cửa sông Soài Rạp. Sông Vàm Cỏ Đông nối với Vàm Cỏ Tây qua các kênh ngang và nối với sông Sài Gòn, Đồng Nai bởi các kênh Thầy Cai, An Hạ, Rạch Tra, sông Bến Lức. Sông Bảo Định nằm trên địa bàn thị xã Tân An, bắt nguồn từ Tiền Giang và đổ vào sông Vàm Cỏ Tây, là nguồn cung cấp nước cho nhà máy nước Tân An và cũng là nơi tiếp nhận nước thải từ khu vực dân cư sống dọc hai bên bờ sông. Sông Rạch Cát (Sông Cần Giuộc) trong địa phận tỉnh Long An dài 32 km, lưu lượng nước mùa kiệt nhỏ và chất lượng nước kém do tiếp nhận nguồn nước thải từ khu vực đô thị -TP Hồ Chí Minh, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và sinh hoạt của dân cư.
Nguồn nước mặt của Long An không dồi dào, chất lượng nước hạn chế về nhiều mặt,nhất là nhiễm phèn,nên không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sản xuất và đời sống. Trữ lượng nước ngầm của Long An không nhiều, chất lượng không đồng đều và tương đối kém. Phần lớn nguồn nước ngầm được phân bổ ở độ sâu từ 50 - 400 mét trong các tầng đá tuổi Đệ Tam.Tuy nhiên tỉnh có một số nguồn nước ngầm khoáng chất lượng tốt đang được khai thác phục vụ sinh hoạt dân cư và sản xuất nước đóng chai thương phẩm (5,12). Tổng công suất khai thác nước ngầm từ hiện nay (2009) vào khoảng 110.000 m3/ngày đêm, phục vụ nhu cầu nước sinh hoạt và nước cấp cho sản xuất của một số nhà máy và khu công nghiệp. Khai thác nước ngầm chủ yếu tập trung ở một số huyện như Đức Hòa, Bến Lức, thị xã Tân An, các huyện Cần Đước, cần Giuộc và Châu Thành. Độ sâu khai thác bình quân của tỉnh là trên 200 m. Ở một số địa điểm khai thác nước nông hơn như ở Đức Hòa – độ sâu khai thác chỉ vào khoảng 20 – 30 m.(14).
2.Biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu long: một bối cảnh của An ninh môi trường tỉnh Long An
Trong tương lai, do ảnh hưởng biến đổi khí hậu, nước biển dâng và hàng loạt công trình thủy điện của các nước trong khu vực sông Mekong (Trung Quốc, Lào, Campuchia...) thi nhau mọc lên sẽ khiến cho lưu lượng nước dòng Mekong giảm chỉ còn 2/3 so với những thập kỷ trước.Từ thượng lưu đến hạ lưu sông Mekong đến nay đã có 16 đập thủy điện đã và đang xây dựng. Theo “quy hoạch’ của các nước trong lưu vực thì hàng trăm dự án thủy điện chằng chịt trên các nhánh chính và nhánh rẽ của dòng sông sẽ làm cho dòng sông bị chia cắt thành nhiều đoạn và ngăn cách con đường sinh cư của các loài thủy sản vốn đang nuôi sống hàng triệu người dân.
Lũ lụt có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế và văn hóa của khu vực này.Trong những thập kỷ gần đây, những trận ngập lụt như vậy ở Việt Nam đang tăng lên cả về mức độ và tần suất khiến cho đã có một bộ phận người dân định cư sang Campuchia.Thiên tai cùng với sức ép lên môi trường do sự phát triển kinh tế xã hội quá nhanh ở Nam Bộ và các quốc gia thượng nguồn ở Đông Nam Á khác, cộng thêm những đe dọa từ biến đổi khí hậu, đang đẩy những người sống dựa vào chúng vào tình trạng nguy hiểm. Trước nguy cơ này, người dân Nam Bộ thích nghi bằng nhiều cách khác nhau. Một trong những cơ chế thích nghi có thể là di cư. Có hai hướng di cư chính: di cư ra vùng đô thị đang phát triển mạnh và di cư sang Campuchia.Việc thiếu các nguồn sinh kế thay thế, việc khó kiếm sống trên mặt nước ngập, cùng với những món nợ ngày càng tăng có thể góp phần đưa đến các quyết định di cư ở Đồng bằng sông Cửu Long. Những người sống phụ thuộc trực tiếp vào nông nghiệp (nông dân trồng lúa) đặc biệt dễ bị tổn thương khi những trận lụt, nhiễm mặn và hạn hán liên tiếp phá hoại mùa màng.. Trong mùa lụt, người dân di cư theo mùa đến các trung tâm đô thị để tìm việc làm và cải thiện sinh kế. Warner và cộng sự, 2008 (19) , cho biết, như một cơ chế ứng phó cực đoan,nạn buôn người (có vẻ như kể cả phong trào lấy chồng ngoại quốc ồ ạt) cũng là một cách thức di cư mà một số gia đình, trước những sức ép liên quan đến nguồn nước, đã phải chấp nhận. Trong tương lai, cứ mười người Việt Nam lại có một người phải đối mặt với nguy cơ mất chỗ ở khi mực nước biển dâng tại châu thổ sông Cửu Long (18,19) .
3.Vấn đề ANMT nước ở Long An phải đặt lên hàng đầu.
Công nghiệp hóa và đô thị hóa đặt sức ép rất lớn lên nhu cầu cũng như chất lượng nước sử dụng. Sự chuyển dịch nhanh chóng của môi trường tự nhiên, xã hội và kinh tế sẽ gây sức ép lớn lên chất lượng môi trường nước.Trong khi đó việc tăng cường năng lực thể chế là vấn đề nan giải đối với địa phương, được đánh giá còn nghiêm trọng hơn các sức ép về bùng nổ dân số, nghèo đói vốn là thách thức không chỉ đối với Long An mà cả nước, làm giảm thành quả của tăng trưởng kinh tế (1).
Các nước trong lưu vực sông Mekong đã quy hoạch xây dựng hàng trăm đập trên các dòng nhánh và dòng chính của sông Mekong.Đồng bằng sông Cửu Long – 250km cuối cùng của dòng Mekong sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất từ những tác động phía thượng nguồn. Những con đập ở đầu dòng giữ nước lại vào mùa khô đã đẩy nhanh tiến trình ngập mặn ở các cửa sông Cửu Long. Mùa khô năm 2008, viện Khoa học Thuỷ lợi Miền Nam đã báo động nước mặn xâm nhập vào đất liền có nơi tới 65km. Hạn hán và thiếu nước ngọt bây giờ lại là mối đe doạ hàng năm, nhất là Nam Bộ không hề có kho dự trữ nước. Nếu có ai lạc quan tin rằng sông Mekong không thể nào cạn nước, hãy xem sông Hoàng Hà ở miền Bắc Trung Quốc. Dài 5.500km, Hoàng Hà là sông dài thứ nhì ở Trung Quốc và dài thứ sáu của thế giới hiện nay, một năm khô kiệt hết 200 ngày. Trên dòng Hoàng Hà có... 12 đập thuỷ điện. Nếu Mekong cạn nước,nhu cầu cấp nước cho Long An sẽ bị khủng hoảng (18). Đồng Tháp Mười với 700 ngàn ha rừng tràm và mặt nước có khả năng trữ trên 100 tỷ m3 nước (gần 1/8 lượng nước có được hàng năm của cả nước ta). Đây là vùng sụt hạ địa chất hiện đại và rất có khả năng sẽ trở thành một kiểu Biển Hồ trong tương lai như Biển Hồ của Campuchia theo tài liệu địa chất.Vấn đề đặt ra cho hôm nay làcó cần cải tạo Đồng Tháp Mười thành một kho dự trữ nước ngọt cho Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Long An nói riêng để đối phó với nguy cơ thiếu nước trong tương lai, hay vẫn cải tạo nó thành vùng sản xuất nông nghiệp như tỉnh mong đợi? Có lẽ hướng biến Đồng Tháp Mười thành kho dự trữ nướcsẽ làm thay đổi cơ bản quy hoạch hiện có của vùng đất ngập nước này nhưng là hướng đi đúng nhằm ứng phó với một vấn đề bức xúc nhất trong phát triển bền vững Nam Bộ: đó là vấn đề thiếu nước do biến đổi khí hậu và do tranh chấp nguồn nước của hệ thống sông Mekong, đồng thời cũng là hướng phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của Đồng Tháp Mười.
Dự báo tới 2020, nhu cầu khai thác nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất gấp 3-4 lần so với hiện tại, điều này sẽ làm giảm trữ lượng và chất lượng nguồn nước, làm cho mực nước ngầm hạ thấp nhiều so với hiện tại, nhất là tại những nơi có mật độ giếng khoan và lưu lượng khai thác lớn. Một lượng lớn nước thải chưa qua xử lý ngấm vào mạch nước ngầm tầng nông, đang góp phần gây ô nhiễm nước ngầm tại khu vực vùng tiếp cận các khu vực công nghiệp và khu dân cư tập trung(2). Đặc biệt, tại khu vực tiếp giáp với các điểm đổ bỏ rác thải, nước rỉ rác có thể chảy tràn ra môi trường và thấm vào môi trường nước gây ô nhiễm(17).
Tổng diện tích đất dành cho công nghiệp của tỉnh Long An đến 2009 là hơn 13.891 ha với 62 khu và cụm công nghiệp. Nếu cộng thêm khoảng 10.000 ha đất nông nghiệp chuyển đổi làm sân golf(9), khu dân cư, phát triển đô thị, dịch vụ thì tính ra, đất công nghiệp ở tỉnh Long An nhiều hơn cả tổng diện tích đất dành cho công nghiệp của TPHCM và Đồng Nai (TPHCM 2.354 ha, Đồng Nai 4.751 ha)(7). Long An có 5.658 doanh nghiệp đăng ký hoạt động với tổng số vốn 160.643 tỉ đồng(8), đã có 10 doanh nghiệp sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bị đình chỉ hoạt động theo Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh. Những ngành sản xuất thường xuyên gây ô nhiễm gồm nấu nhôm, luyện cán thép, đúc gang và tập trung nhiều tại hai huyện Đức Hòa và Bến Lức (hai địa phương có nhiều khu công nghiệp tập trung trong tỉnh)(10). Theo ước tính trước đây của Viện Môi trường và Tài Nguyên năm 2009, đến năm 2020, các khu và cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh hàng ngày thải vào môi trường khoảng 190.408 m3/ngày đêm, với tổng tải lượng chất ô nhiễm khi các khu và cụm công nghiệp lấp đầy diện tích là 33,4 tấn BOD5, 58,9 tấn COD, 38,2 tấn SS (chất rắn lơ lửng), 0,81 tấn tổng Ni tơ và 0,48 tấn tổng Phot pho. Lượng chất ô nhiễm chủ yếu thải vào Sông Vàm Cỏ Đông, nguồn cung cấp nước chính cho hoạt động nông nghiệp và sinh hoạt (các hộ gia đình sống ven sông), sông Cần Giuộc, các kênh rạch dẫn nước của Tỉnh (kênh An Hạ, kênh Thầy Cai, rạch Bùng Binh,…).Chưa kể đến khoảng 187,7 tấn chất thải nguy hại, 750,8 tấn chất thải công nghiệp không nguy hại và 221,2 tấn chất thải sinh hoạt trong các (trường hợp lấp đầy 100% diện tích đất quy hoạch)(17). Những tính toán này chưa kể đến những dự án công nghiệp mới của QH 2020 tầm nhìn 2030 (15) . Những phân tích trên đây cho thấy trong những năm tới, tác động tiêu cực đến môi trường và tính ỳ của những dự án đã phê duyệt vẫn là nhiệm vụ bức xúc của Long An.Theo ước tính dựa theo các dự án hiện có (16), đến 2020, để cấp đủ lượng nước trong trường hợp các khu công nghiệp đã lấp đầy diện tích, tổng lượng nước cần thiết ước tính khoảng 238.000 m3/ngày đêm. Nếu cộng thêm nhu cầu nước cấp cho các dự án công nghiệp mới sẽ quy hoạch trong tương lai, nhu cầu nước cho công nghiệp sẽ tăng rất cao có thể đến 350.000 m3/ngày đêm- lượng nước sạch đủ cung cấp thoải mái cho 1.750.000 người, tức là bằng dân số của toàn tỉnh Long An vào năm 2020.Nhu cầu này không thể dựa vào việc khai thác nguồn nước ngầm ít ỏi của Long An cũng như nguồn nước mặt vốn cũng không phong phú gì nhất là trong mùa khô.Vậy thì dựa vào nguồn nào? Đấy là chưa kể các nhu cầu về nước của các lĩnh vực kinh tế dân sinh khác.
Khu vực chịu ngập úng và lũlà vùng đất thấp ven sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, sông Cần Giuộc; ngập cục bộ ở các nơi địa hình thấp trũng trong nội đồng và ở các khu vực nội thị, đặc biệt là vùng phía nam quốc lộ 1A. Do tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa cao, trong khi hiện trạng đầu tư cơ sở hạ tầng vẫn chưa đáp ứng kịp thời, tình trạng úng lụt ở nhiều vùng Long An có thể ngày càng nghiêm trọng hơn. Mặt khác, do mật độ xây dựng tại nhiều khu vực lớn, việc chia cắt địa hình do các tuyến đường giao thông (cản trở hướng thoát nước), diện tích lưu vực thoát nước ngày càng bị thu hẹp hoặc biến mất (do đất công nghiệp, giao thông tăng, đô thị trong lưu vực hứng nước tăng nhanh, diện tích không gian mở như vườn cây, thảm thực vật, ao hồ, đất nông nghiệp liên tục giảm…), khiến cho hiện tượng ngập lụt là loại sự cố môi trường ngày càng trầm trọng… (6) .
Chu kỳ “lũ – hạn” tự nhiên đang chi phối toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long đòi hỏi quy hoạch riêng mỗi tỉnh phải phối hợp với toàn vùng. Chu kỳ này hàng trăm năm nay đã điều khiển hoạt động kinh tế nhất là nông nghiệp của đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Long An nói riêng.Từ tháng 1 đến tháng 6 là mùa khô hạn, nông dân Miền Hạ sử dụng nước lợ để nuôi tôm trên cánh đồng của họ. Từ tháng 7 đến tháng 12 là mùa nước nổi (lũ) với lượng mưa trung bình năm dao động từ 1.200 đến 1.600mm, lượng mưa trong mùa mưa chiếm khoảng 93- 99% tổng lượng mưa cả năm. Những con đập và hồ chứa nước ngọt, ngăn mặn trong mùa khô được xây dựng gần đây đã ngăn không cho người dân lấy nước mặn để nuôi tôm khiến cho ở một số nơi Miền Hạ Nam Bộ người dân đã phá đập lấy nước mặn vào ruộng để nuôi tôm (3).Mâu thuẫn giữa trồng lúa và nuôi tôm, giữa nhu cầu sử dụng nước cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt sẽ ngày càng căng thẳng.

Bản đồ đường nhiễm mặn (màu đỏ-hình bên trái) và ngập lụt hàng năm(màu xanh tím-hình bên phải) ở đồng bằng sông Cửu Long. Chú ý vùng phía đông tỉnh Long An, nhiễm mặn mùa khô tiến sát biên giới Campuchia(theo Tran Thanh Be, Bach Tan Sinh và F.Miller, 2007) (4)
Kết luận
Long An nằm sát thành phố Hồ Chí Minh. Sức ép dân cư và công nghiệp hóa quá nóng của thành phố lớn nhất Việt Nam này đã và sẽ còn dịch chuyển sang Long An, làm nảy sinh nhiều nhu cầu mới về đất đai cho dân cư nhập cơ học và cho các doanh nghiệp từ thành phố Hồ Chí Minh chuyển sang, vượt ngoài tầm kiểm soát của tỉnh Long An. Hiện nay, sự chuyển đổi nhanh đất nông nghiệp sang công nghiệp, đô thị sẽ là nguyên nhân chủ yếu gây ảnh hưởng môi trường đất và nước trên địa bàn Tỉnh Long An. Vấn đề môi trường hàng đầu cần quan tâm trong phát triển là môi trường nước. Ô nhiễm và thiếu nước sạch cho kinh tế và sinh hoạt, kèm theo lũ và hạn là những thách thức. Nước là một ngưỡng phát triển của Long An. Ưu tiên các ngành kinh tế ít sử dụng nước, xử lý và tái sử dụng nước sau phát xả là hướng đi ưu tiên và lâu dài cho Long An. Nếu không đầu tư cho lính vực này, vấn đề nước sớm hay muộn cũng là vấn đề an ninh môi trường của tỉnh Long An.
Chú thích
(1) James H. Spencer. Water and Environmental Security in Globalizing Vietnam:Emerging Risks in the Mekong DeltaGlobalization Research Center, University of Hawai’i at Manoa, 7/2007
(2) James H. Spencer. Health, human security and the peri urban transition in the Mekong Delta: Market reform, Governance and new analytic framework for research in Southeast Asia. IJAPS Vol. 3, No. 2 (November) 2007
(4) Trần Thanh Be, Bach Tan Sinh và Fiona Miller,2007.Challenges to Sustainable Development in the Mekong Delta:a regional perspective on important policy issues & research needs. http://www.sumernet.org/news/eventdetail.asp?id=383
(12) Sở TN và MT Long An. 2006 Báo cáo Đánh giá hiện trạng Môi trường tỉnh Long An giai đoạn 2001-2005.
(13) ALMEC corporation. Long An-Socioeconomic Development Plan 2006- 2020. Tan An, 2/2007
(14) UBND tỉnh Long An. Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hộitỉnh Long An đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Tân An 4/2010.Báo cáo tiến độ II, phần I: Phân tích hiện trạng.
(15) UBND tỉnh Long An Nghiên cứu Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hộitỉnh Long An đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Tân An. 4/2010. Báo cáo tiến độ II, phần II: Các chiến lược và dự án. Phần III: thông tin dự án
(16) UBND tỉnh Long An.Báo cáo thuyết minh Điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối tỉnh Long An. Tân An 6/2008
(17) Viện Môi trường và Tài nguyên IER, 2009.Quy hoạch môi trường tỉnh Long An đến 2015 và định hướng đến 2020
(18) Nguyễn Đình Hòe và Nguyễn Ngọc Sinh. Đảm bảo An ninh môi trường cho phát triển bền vững. NXB Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội. 2010
(19) Warner,K., Ehrhart,Ch., Sherbinin,A., Adamo,S. và Chai-Onn,T.,“Tìm kiếm nơi trú ẩn: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên tình trạng di cư và mất chỗ ở của con người”. Tổ chức CARE,2008.http://www.careclimatechange.org hoặc http://ciesin.columbia.edu/publications.html
(20) Ảnh minh họa http://www.vietcyber.com/forums/showthread.php?t=123346