quản lý tòa nhà

logo Tạp chí TNMT-VACNE Vì Môi trường Xanh Quốc gia 2024
HỘI THẢO KHOA HỌC CỦA HỘI

Dãy Trường Sơn - Bức bình phong giảm thiểu, ứng phó với các loài thú bị đe dọa trong trong bối cảnh BĐKH

Thứ Sáu, 05/03/2010 | 11:13:00 AM

Đặng Huy Huỳnh, Phạm Trọng Ảnh, Đặng Huy Phương Hội bảo vệ thiên nhiên & môi trường VN

 
 
 
1. Rừng núi Trường Sơn với biển đối khí hậu.
Đến với Trường Sơn, mời bạn hãy dừng chân năm ba phút lắng nghe đâu đó những âm vang trầm bổng vang vọng từ núi rừng sâu thẳm trải dài trên miền biên giới của ba nước Đông Dương năm xưa vọng về.
Trường Sơn ơi! Trên đường ta qua không một dấu chân người
Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác
Dừng ở lưng đèo mà nghe suối hát
Ngắt một đóa hoa rừng gài lên mũ ta đi...[*]
Dãy Trường Sơn của ba nước Đông Dương là một bức bình phong khổng lồ vững chắc không chỉ che chắn cho sự trường tồn phát triển của gần 40 dân tộc anh em, với khoảng 20 tộc người đang hội tụ tại vùng đất địa linh đầy hoa và ánh sáng, một vùng địa lý chạy từ Thanh Hóa đến dãy núi Biđup - núi Bà thuộc tỉnh Lâm Đồng, kết nối thành một vùng Địa - Kinh tế - Sinh thái chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trong đó có các loài thú, đặc biệt các loài thú quý hiếm, bị đe dọa toàn cầu cũng như khu vực ASEAN. Sự ngưỡng mộ tài nguyên thiên nhiên nơi đây không chỉ đối với cộng đồng người Việt, mà ngay cả đối với người nước ngoài, ngay từ những thập kỷ năm 1950 của thế kỷ XX ông Chochod một nhà du lịch thám hiểm người Pháp đã từng đến với rừng núi Trường Sơn và đã từng viết "Tây Nguyên là thiên đàn của ngành du lịch săn bắn thể thao" mô tả trong quyển La Faune de indochinoise. Vinqt.cinqs.ants de chassé au Tonkin et Annam. Paris, 1950.
Thực vây, dãy Trường Sơn hùng vĩ nổi tiếng không chỉ có sự trù phú của miền đất đỏ ba zan, là nền tảng cho sự thích ứng các giống cây cà phê, cao su, cây điều... đang vươn mình thẳng tắp trên cao nguyên lộng gió, mà còn là nơi đã hình thành nên các hệ sinh thái rừng độc đáo, điển hình như hệ sinh thái đồng cỏ rộng lớn ở MDrak (DakLak), An Khê ở Gia Lai và YaBok (Kon Tum), hệ sinh thái rừng Khộp, một kiểu rừng mà các loài cây họ dầu (Dipterocarpacea) chiếm ưu thế, một kiểu rừng đặc biệt độc đáo mà hầu như các vùng địa lý khác ở Việt Nam không có được. Đó là rừng lá rộng rụng lá mà người Việt nam chúng ta thường gọi rừng Khộp - bởi cấu trúc và thành phần loài thực vật ở đây hầu như không giống với cấu trúc cũng như thành phần thực vật các kiểu rừng khác trong toàn quốc. Ở đây tác giả chỉ đề cập đến thành phần và hiện trạng một số loài thú hoang dã, thuộc diện quý hiếm, các loài có giá trị kinh tế cao đang có nguy cơ bị đe dọa, mà hiện nay các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên đang hiện hữu trên dãy Trường Sơn là nơi có khả năng cứu cánh, góp phần làm giảm thiểu và thích ứng đối với các loài động vật nói chung, các loài thú bị đe dọa nói riêng trong bối cảnh của biến đổi khí hậu đang xảy ra thường xuyên.

Dưới đây xin nêu số lượng các loài thú bị đe dọa đang được bảo vệ trong các khu BTTN, VQG trên dãy Trường Sơn.
Bảng 1. Số lượng các loài thú bị đe dọa trong các vườn quốc gia, các khu Bảo tồn trong vùng sinh thái dãy Trường Sơn.
TT
Tên khu bảo tồn
Tỉnh
Diện tích tự nhiên (ha)
Diện tích có rừng (ha)
Số lượng loài thú bị đe dọa theo SDVN.2007
Ghi chú một số loài đại diện
CR
EN
VU
I
Các vườn quốc gia
1                     
Bến En
Thanh Hóa
16.634
11.490
2
12
15
Voi, Gấu ngựa, Cầy mực, Sói đỏ, Nai, Khỉ mặt đỏ, Khỉ đuôi lợn, Khỉ vàng
2                     
Pù Mát
Nghệ An
91.113
89.290
5
20
10
Voi, Sao la, Bò tót, Hổ, Báo hoa mai, Vượn, Chà vá chân nâu, Sơn dương
3                     
Vũ Quang
Hà Tĩnh
55.058
51.628
4
20
10
Sao la, Báo hoa mai, Voọc Hà Tĩnh, Gấu ngựa, Mang lớn, Cầy bay.
4                     
Phong Nha - Kẻ Bàng
Quảng Bình
85.754
84.894
5
20
15
Bò tót, Hổ, Voọc Hà Tĩnh, Chà vá chân nâu, Vượn Siki, Báo hoa mai,
5                     
Bạch Mã
Thừa Thiên - Huế
22.031
17.350
3
20
12
Sao la, Chà vá chân nâu, Vượn Siki, Gấu ngựa...
6                     
Chư Mom Ray
Kon Tum
56.621
46.943
7
20
15
Bò tót, Bò rừng, Hươu Cà Toong, Hươu vàng, Hổ, Báo hoa mai, Vượn má hung, Chà vá chân xám, Chà vá chân nâu, Cầy mực.
7                     
Kon Ka Kinh
Gia Lai
41.780
32.969
3
12
23
Báo hoa mai, Sóc bay đen trắng, Vượn má hung, Chà vá chân đen, Gấu ngựa, Cầy Tây Nguyên.
8                     
Yok Đôn
Đak Lak
115.545
111.296
7
15
26
Voi, Hổ, Bò tót, Bò rừng, Trâu rừng, Hươu cà trong, Bò xám, Báo hoa mai, Voọc bạc, Nai, Cheo nam dương, Chó sói.
9                     
Chư Yang Sinh
Dak Lak
57.606
53.062
 
10
5
Chà vá chân đen, Vượn má hung, Gấu ngựa, Mèo ri, Báo gân..
10                 
Bidoup - Núi Bà
Lâm Đồng
64.366
58.222
 
12
10
Chà vá chân đen, Vượn má hung, Báo gấm, Mèo ri, Mèo rừng, Mang lớn...
11                 
Phước Bình
Ninh Thuận
19.814
17.295
 
5
15
Chà vá chân đen, Khỉ mặt đỏ, Khỉ đuôi dài, Voọc bạc, Báo hoa mai, Mèo rừng, Cầy gấm...
12                 
Núi Chúa
Ninh Thuận
22.513
11.222
 
10
15
Chà vá chân đen, Khỉ đuôi dài, Khỉ mặt đỏ, Voọc bạc, Báo gấm...
II
Khu bảo tồn thiên nhiên
475.876
 
 
 
 
 
 
IIA. Khu dự trữ thiên nhiên
475.207
 
 
 
 
 
1                     
Pù Hu
Thanh Hóa
27.503
21.523
 
2
5
Bò tót, Báo hoa mai, Khỉ mặt đỏ, Gấu ngựa, Gấu chó, Cầy mực
2                     
Pu Luông
Thanh Hóa
17.662
14.934
 
2
4
Nai, Bò tót, Gấu chó, Gấu ngựa, Cây hương, Báo gấm, Sơn dương, Chó sói.
3                     
Xuân Liên
Thanh Hóa
27.237
20.912
 
6
5
Nai, Bò tót, Gấu ngựa, Gấu chó, Báo gấm, Cầy mực, Rái cá, Voọc xám.
4                     
Pù Hoạt
Nghệ An
65.611
52.275
 
3
5
Mang Pù hoạt, Nai, Gấu ngựa, Gấu chó, Cầy mực...
5                     
Pù Huống
Nghệ An
49.806
36.458
1
4
5
Mang lớn, Nai, Gấu chó, Gấu ngựa, Cầy vằn, Cầy gấm, Sao la
6                     
Đakrông
Quảng Trị
40.526
26.976
1
5
8
Bò tót, Sao la, Sơn dương, Báo hoa mai, Cầy mực, Cầy hương, Khỉ mặt đỏ.
7                     
Kẻ Gỗ
Hà Tĩnh
24.801
16.28
 
3
6
Voọc Hà Tĩnh, Chà vá chân nâu, Vượn má trắng, Nai, Cầy Hương, Cầy vằn.
8                     
Phong Điền
Thừa Thiên - Huế
41.433
29.245
 
5
8
Mang lớn, Nai, Báo hoa mai, Chà vá chân đen, Gấu ngựa, Gấu chó, Cầy mực.
9                     
Sông Thanh
Quảng Nam
79.694
61.752
2
8
10
Mang Trường Sơn, Mang lớn, Hổ, Báo hoa mai, Chà vá chân đen, Gấu ngựa, Voi, Vượn má hung
10                 
Ngọc Linh
Quảng nam
17.576
13.916
 
7
6
Vượn má hung, Gấu ngựa, Gấu chó, Báo gấm, Cầy mực, Mèo ri, Mèo rừng.
11                 
Bà Nà - Núi Chúa
Quảng Nam
8.590
8.144
 
4
6
Chà vá chân nâu, Báo hoa mai, Cầy gấm, Cầy hương.
12                 
Bán đảo Sơn Trà
Đà Nẵng
3.871
3.778
 
4
 
Chà vá chân nâu, Voọc đen má trắng, Báo gấm, Mèo rừng.
13                 
Krông Trai
Phú Yên
13.576
12.651
 
3
 
Nai, Hươu vàng, Bò tót, Cheo Nam Dương.
14                 
Ngọc Linh
Kon Tum
41.420
32.217
 
4
 
Khỉ mặt đỏ, Khỉ đuôi lợn, Gấu chó, Gấu ngựa, Sơn dương, Cầy gấm.
15                 
Kon Cha Răng
Gia Lai
15.901
15.454
3
18
41
Bò tót, Vượn má hung, Nai, Cầy mực, Sóc bày trâu, Mèo rừng
16                 
Tà Đùng
Dak Nông
14.111
12.971
 
5
12
Bò tót, Vượn má hung, Báo hoa mai, Cầy mực, Nai, Mèo ri.
17                 
Ea Sô
Dak Lak
21.531
16.331
 
6
10
Bò tót, Bò rừng, Nai, Báo hoa mai, Mèo rừng, Cầy hương, Cầy mực.
18                 
Nam Ka
Dak Lak
24.024
19.498
 
3
9
Khỉ đuôi lợn, Khỉ mặt đỏ, Chà vá chân đen, Báo gấm, Nai, Mang lớn.
19                 
Nam Nung
Dak Nông
15.257
9.127
 
3
8
Gấu ngựa, Báo hoa mai, Mèo ri, Nai, Mang lớn
20                 
Núi Ông
Bình Thuận
25.034
23.194
 
5
7
Gấu ngựa, Cầy vằn, Cầy mực, Báo gấm, Mèo rừng.
21                 
Tà Kóu
Bình Thuận
11.866
6.299
 
6
8
Gấu ngựa, Báo hoa mai, Báo gấm, Cầy hương, Báo lửa, Rái cá lông mượt
 
IIB. Khu bảo tồn loài/Sinh cảnh
669
 
 
 
 
 
1                     
Cát Lộc
Lâm Đồng
10.000
10.000
1
5
5
Tê giác một sừng, Gấu ngựa, Sói đỏ, Cheo Nam Dương, Khỉ mặt đỏ, Báo hoa mai.

Qua bảng 1 cho thấy vùng rừng núi của dãy Trường Sơn trải dài dọc theo hành lang biên giới giữa Việt Nam - Lào và Campuchia được thiên nhiên ưu đãi về sự phong phú nguồn tài nguyên thú hoang dã trong đó có nhiều loài thú đang có nguy cơ bị đe dọa, đặc biệt các loài tê giác một sừng, bò xám, bò tót, bò rừng, trâu rừng, nai, hươu vàng, lợn chà vao, hổ Đông Dương cùng nhiều loài thú linh trưởng quý hiếm như: Voọc Hà Tĩnh với số lượng khoảng 600 - 800 cá thể chỉ phân bố ở VQG Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) và vùng Vũ Quang (Hà Tĩnh); loài Voọc đen tuyền (T.f.ebenus) là loài đặc hữu của Việt Nam và Lào; các loài Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus nemaeus), Chà vá chân đen (P.n.nigripes), Chà vá chân xám (P.cinerea) với số lượng ước tính từ 800 đến 1000 cá thể phân bố ở vùng núi từ Thanh Hóa đến Khu BTTN An Toàn Bình Định. Vượn Siki (Nomascus leucogenys), Vượn má hung (N.gabriellae) và Voọc bạc (Trachypithecus vilusus) là những loài đặc hữu ở cả ba nước Đông Dương, với số lượng khoảng từ 500 - 600 cá thể.
Điều đáng quan tâm, đây là vùng duy nhất của Việt Nam nói riêng và các nước trong khối ASEAN nói chung, ngay từ những thập kỷ năm 90 của thế kỷ thứ XX đã làm cho thế giới ngạc nhiên bởi một số loài thú mới cho khoa học được phát hiện ghi nhận trên vùng rừng núi của dãy Trường Sơn.
Bảng 2. Các loài thú mới được phát hiện
trên vùng sinh thái dãy Trường Sơn
TT
Tên khoa học
Tên Việt Nam
Địa điểm
Nguồn - thời gian
1
Pseudoryx
nghetinhensis
Sao La
Vũ Quang - Hà Tĩnh
Vũ Văn Dũng et all 1992
2
Megamuntiacus
vuquangensis
Mang lớn
Vũ Quang - Pù Mát
FIPI - 1993
3
Muntiacus
puhoattensis
Mang phù hoạt
Nghệ An
FIPI - 1997
4
Muntiacus
truongsonensis
Mang Trường Sơn
Tây Quảng Nam (Tây Giang - Đông Giang)
Cục KL - 1997
5
Vivera
taynguyenensis
Cầy Tây Nguyên
Tây Nguyên
Soclov, Phạm Trọng Ảnh... 1998
6
Nesolagus tmeminsii
Thỏ vằn
VQG Phong Nha Quảng Bình
Phạm Nhật - Nguyễn Xuân Đặng - 2000
7
Pseunovibos
Spiralis
Bò sừng xoắn
Tây Nguyên
Nhóm các nhà động vật CHLB Đức - 1994
8
Bos Sauvelli
Bò xám
Tây Nguyên
Urbair - 1937
9
Sus bucculentus
Lợn chà vao
Quảng Bình
Phạm Nhật - Nguyễn Xuân Đặng Tordof - 2002
10
Muntiacus
roốcvelton
Hoẵng Rôsơven
Thanh Hóa
Eleanorgane Stecung... Lê Đức Minh - 2007
11
Pygathrix
Cinerea
Chà vá chân xám
An Toàn Bình Định
Tilo Nádlar - 1997
Qua các dẫn liệu trình bày ở trên cho thấy các loài thú quý hiếm có nguy cơ bị đe dọa với số lượng cá thể của từng loài trên dãy Trường Sơn là rất thấp, lại phải sống cách ly giữa các quần thể do rừng bị chia cắt, phân mảnh, cho nên số loài được xem là ở mức độ rất nguy cấp (CR) là 7 còn mức nguy cấp (EN) đến 20 loài, dự báo nếu không có các giải pháp bảo vệ thì tương lai không xa chúng sẽ còn hiện diện ở dãy Trường Sơn bởi tình trạng khô hạn nắng nóng kéo dài rừng bị cháy hoặc trượt lở lũ quét, nước suối, sông dâng cao làm mất nơi ở hoạt động của chúng.
Vì vậy dãy Trường Sơn phải là nơi cần được ưu tiên cao trong việc tổ chức, quy hoạch xây dựng hành lang xanh để bảo tồn các loài động vật hoang dã cũng như các loài thú bị đe dọa trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như ở Việt Nam.
3. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Hiện nay bối cảnh của biến đổi khí hậu (BĐKH) đã là vấn đề không xa lạ đối với Việt Nam nói chung và đối với vùng địa lý thuộc dãy Trường Sơn nói riêng. Sau khi phân tích các diễn biến về thời tiết. Sự tăng lên của nhiệt độ, thời gian hạn hán, mưa, bão lũ... ngày càng xảy ra trầm trọng hơn ở các tỉnh Bắc Trường Sơn, Nam Trường Sơn và Tây Nguyên, TS Phạm Đức Thi và cộng sự (2007) đã khẳng định khu vực Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên tình hình biến đổi khí hậu đã có tác động không có lợi tới toàn bộ kinh tế - xã hội nói chung, hệ sinh thái và đa dạng sinh học nói riêng, tài nguyên rừng đã bị cạn kiệt, các loài động thực vật kể cả những loài quý hiếm cũng bị suy giảm nghèo kiệt, thậm chí không còn. Theo Pilgrim (2007) ở Việt Nam khi nước biển dâng cao 1 mét dự báo sẽ tác động tới 78 sinh cảnh tự nhiên quan trọng (27%) và 46 khu BTTN (33%) và 9 khu vực có đa dạng sinh học ở Việt Nam, GS Võ Quý trong báo cáo biến đổi khí hậu cũng đã đê cập hậu quả do biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra ngày một rõ ràng, trong đó có tác động đến đa dạng sinh học ở Việt Nam (Võ Quý, 2009)...
Rõ ràng sự chuyển động, diễn biến của các hệ sinh thái ở những vùng núi Việt Nam nói chung và dãy Trường Sơn nói riêng trong thời gian qua đặc biệt những trận mưa bão, lụt xảy ra năm 2009 với hiện tượng khô nóng, cháy rừng là một thực tế. Do vậy cần được tổ chức nghiên cứu, quan trắc để có các giải pháp thích ứng và giảm thiểu các tác động không có lợi đến các loài động vật, thực vật, đặc biệt các loài thú một nguồn gen vô vùng quý hiếm đang có nguy cơ bị đe dọa đang hiện hữu trong các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên trên dãy Trường Sơn.
4. Đề xuất các giải pháp giảm thiểu, thích ứng với biến đổi khí hậu đối với các loài thú bị đe dọa trên dãy Trường Sơn.
Để góp phần giảm thiểu và thích ứng của hiện tượng biến đổi khí hậu đối với các loài thú nói chung và loài thú bị đe dọa nói riêng, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau đây:
4.1. Khả năng để giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu đối với các loài động vật hoang dã nói chung và các loài thú bị đe dọa nói riêng, là hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện môi trường tự nhiên: nơi cư trú, nguồn thức ăn, nguồn nước... và nền văn minh của con người. Chính vì vậy chúng tôi đề nghị Chính phủ, Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ Công thương và các địa phương cần quan tâm đến các giải pháp về chính sách đầu tư về nguồn tài chính và nguồn nhân lực để rà soát, củng cố và quy hoạch mở rộng hệ thống các khu BTTN và VQG trên dãy Trường Sơn. Đặc biệt vấn đề quy hoạch sử dụng đất ở Tây Nguyên, trước sự phát triển nhanh diện tích trồng cây cao su, cũng như xây dựng các công trình thủy điện hiện nay ở Tây Nguyên. Dù rằng đã có chủ trương của Thủ tướng Chính phủ, nhưng để thực hiện chủ trương của Chính phủ là phải có khảo sát phân tích để quy hoạch đồng bộ hoàn chỉnh một cách tổng thể, trong khi chưa có được sự xem xét thấu đáo giữa lợi và hại việc chuyển một diện tích khá lớn rừng gọi là nghèo kiệt, trong đó có xâm phạm đến diện tích của một số khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia trên dãy Trường Sơn để trồng cao su, hoặc làm thủy điện, trong bối cảnh của biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Như chúng ta đều biết theo cảnh báo của các nhà khoa học quốc tế thì Việt Nam là một trong năm nước sẽ phải chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu. Cho nên lẽ ra là phải điều tra cân nhắc thận trọng, nghiêm túc trong việc điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất với vấn đề bảo vệ môi trường trong bối cảnh biến đổi khí hậu để đánh giá vùng nào có thể chuyển đổi mà không ảnh hưởng lớn đến môi trường tự nhiên, các hệ sinh thái độc đáo, đến các nguồn gen thực vật, động vật, các loài thú quý hiếm trên dãy Trường Sơn mà ít nơi nào trên thế giới có được, có nghĩa là việc đánh đổi là phải cân nhắc giữa phát triển và bảo vệ môi trường một cách bền vững. Ý thức rằng việc bảo vệ các khu rừng chính là bảo vệ các sinh cảnh sống của các loài động vật hoang dã nói chung và các loài thú bị đe dọa trên dãy Trường Sơn một tiểu vùng sinh thái được đánh giá là rất nhạy cảm về an ninh môi trường, an ninh sinh thái kể cả an ninh chính trị và quốc phòng. Theo chương trình nghị sự 21 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (2004), là phát triển kinh tế phải bảo đảm mục tiêu BVMT, xây dựng các dự án giảm nhẹ của biến đổi khí hậu, hạn chế tối đa những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến tài nguyên đa dạng sinh học...
4.2. Cần nghiên cứu cơ sở khoa học để tiến hành quy hoạch một số hành lang xanh trên DTS để bảo vệ các sinh cảnh sống ổn định cho các loài động vật hoang dã, các loài thú bị đe dọa. Trước sự tác động của biến đổi khí hậu (hành lang bảo tồn các loài thú lớn: Voi, Hổ Đông Dương, các loài bò rừng, các loài thú linh trưởng...)
Như chúng ta đều biết rừng Trường Sơn không chỉ góp phần làm giảm nhẹ hậu quả của biến đổi khí hậu mà là địa bàn có thể xem là độc nhất, có tiềm năng lớn và vô cùng quan trọng để bảo vệ cuộc sống yên bình cho các cư dân và các cộng đồng hoang dã đang trú ngụ và phát triển trên dãy Trường Sơn, một địa danh đã đi vào lịch sử của cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, dành độc lập tự do cho cả 3 dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
4.3. Xác định và bảo vệ những khu vực rừng còn tốt, rừng nhiều tầng có vị trí chức năng quan trọng trong việc đối phó để giảm thiểu với biến đổi khí hậu. Tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát các tác động không có lợi của các hoạt động kinh tế đối với hệ sinh thái đối với các loài thú rừng trên dãy Trường Sơn.
4.4. Lồng ghép việc quy hoạch trồng rừng với chương trình xóa đói giảm nghèo trên dãy Trường Sơn, trong bối cảnh biến đổi khí hậu bằng cách tạo, nhân giống các loài thực vật, động vật thích hợp với các hệ sinh thái rừng ẩm, rừng khô, rừng thưa để dự phòng khi có thảm họa xảy ra.
4.5. Phục hồi khu vực có rừng ẩm, bãi cỏ đang bị suy thoái, tạo nguồn thức ăn để thu hút các loài thú móng guốc bị đe dọa, giảm áp lực cho các loài thú bị đe dọa phải di chuyển sang các khu vực xa vùng biên giới tìm nguồn thức ăn.
4.6. Xây dựng các điểm giám sát các loài thú bị đe dọa tại một số VQG Pù Mát (Nghệ An), Dak Krông - Bắc Hương Hóa (Quảng Trị), Sông Thanh (Quảng Nam), Chư Mom Ray (Kon Tum), Yok Don (Dak Lak), Cát Lộc (Lâm Đồng) nhằm phục vụ cho lập kế hoạch quản lý các loài thú bị đe dọa để ứng phó với bối cảnh biến đổi khí hậu.
4.7. Cần có tiếng nói chung thống nhất việc tổ chức xây dựng một số hành lang, một số khu BTTN giữa Việt Nam và Lào; Việt Nam và Campuchia như: khu Hin Nam No với VQG Phong Nha Kẻ Bàng, khu VQG Chư Mom Ray với khu BTTN Đong Am Phan (Lào) và Vira Chay (Campuchia) và VQG Yok Don với khu BTTN Phnom Nam - Lyr (Campuchia). Đó là những hành lang kết nối liên hoàn có vai trò quan trọng đối với việc bảo tồn và tạo hành lang an toàn cho việc di chuyển của các loài thú bị đe dọa từ nơi này sang nơi khác trong bối cảnh biến đổi khí hậu cũng như trước mối đe dọa từ các hoạt động của con người.
4.8. Bằng nhiều biện pháp để khơi dậy ý thức của cộng đồng sống trên dãy Trường Sơn về bảo vệ ngôi nhà chung của ba nước Đông Dương để kịp thời ứng phó, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu.
 
 
LỜI KẾT
 
Dẫu rằng so với 50 - 60 năm về trước thì rừng núi, các hệ sinh thái, đa dạng sinh học... trên dãy Trường Sơn có bị suy giảm một phần. Nhưng nhìn chung trong bối cảnh của biến đổi khí hậu hiện nay thì vai trò của dãy Trường Sơn vẫn được xem như là một bức tường thành vững chắc cho việc bảo tồn nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong đó có các loài thú quý hiếm bị đe dọa, nép ẩn dưới màu xanh của núi rừng Trường Sơn với những mái nhà rông muôn màu muôn sắc rực rỡ vương cao giữa bầu trời lộng gió vang vọng những điệu nhạc cồng chiêng, một nét văn hóa phi vật thể ngân vang muôn nghìn âm thanh trầm bổng làm sinh động cả núi rừng trên dãy Trường Sơn, xen lẫn tiếng khẩn cầu của thế giới hoang dã trong bối cảnh của biến đổi khí hậu, như thúc dục chúng ta hãy giữ gìn bảo vệ tính nguyên sơ của núi rừng Trường Sơn.
Hãy giữ và chăm sóc từng khóm cây dù lớn, dù bé để cho các bộ rễ cắm sâu xuống lòng đất, để cho các cộng đồng sống nơi đây có cái ở, cái ăn.
Hãy bảo vệ và trồng thêm thật nhiều rừng để cho con chim, con thú có nơi sinh tồn và phát triển. Tất cả chúng ta hãy cùng chung tay bảo vệ cái vốn quý của dãy Trường Sơn, cái nơi rồi đây khi mà nhiệt độ trái đất ngày càng nóng lên cùng với mực nước biển dâng 1 - 2m thì chính đồng bào ta cũng như các loài động vật, các loài thú sống ở các vùng thấp cũng phải di chuyển lên dãy Trường Sơn để tồn tại và phát triển.

 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1)     Bộ KH&CN, Viện KH&CNVN, 2007. Sách đỏ Việt Nam phần Động vật - NXB Khoa học tự nhiên - Viện KH&CN Việt Nam.
2)     Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Bảo vệ và quản lý các loài thực vật, động vật đang bị đe dọa.
3)     Đặng Huy Huỳnh, Hoàng Minh Khiên, Phạm Trọng Ảnh, Đặng Huy Phượng, 2008. Bảo tồn và phát triển các loài thú kinh tế vùng sinh thái dãy Trường Sơn.
Kỷ yếu hội thảo bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn.
Cục BVMT - Hội BVTN&MTVN.
4)     Đặng Huy Huỳnh, Phạm Trọng Ảnh, Trần Văn Thắng, 2008. Bảo tồn nguồn gen các loài thú guốc chẵn ở (Arliodactyla) ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tạp chí Kinh tế - Sinh thế. Hội Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam - số 24.
5)     Nguyễn Ngọc Sinh, 2008. Báo cáo tổng kết hội thảo đa dạng sinh học dãy Trường Sơn.
Kỷ yếu hội thảo bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn.
Cục BVMT, Hội BVTN & MT VN.
6)     Phạm Bình Quyền, Đặng Huy Huỳnh, Lê Trần Chấn, Hồ Thanh Hải, Đỗ Hữu Thử, Phạm Việt Hùng, 2008. Đa dạng sinh học và giá trị đa dạng sinh học vùng Bắc Trung Bộ. Kỷ yếu hội thảo bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn - Cục BVMT, Hội BVTN & MT VN.
7)     Phạm Đức Thi, Nguyễn Thu Bình, 2007. Biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tài liệu hội thảo khoa học Hội BVTN & MT VN.
8)     Pilgrim, J..., 2007. Tác động của nước biển dâng đến sinh cảnh tự nhiên quan trọng ở Việt Nam. Hội thảo quốc tế về đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu - Hà Nội, 2007.
9)     Võ Quý, 2008. Biến đổi khí hậu toàn cầu và đa dạng sinh học - Hội thảo khoa học biến đổi khí hậu toàn cầu và giải pháp ứng phó của VN.
Cục BVMT - Hội BVTN & MT Việt Nam.
10)   Vũ Văn Dũng, 2008. Một số nhận xét các khu bảo tồn trong vùng sinh thái dãy Trường Sơn về mặt quy hoạch.
Kỷ yếu hội thảo bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn.
Cục BVMT - Hội BVTN & MT Việt Nam.


[*] Trong bài hát: Nhạc Trần Chung; lời Gia Dũng.

Lượt xem: 1466

Các tin khác

Bài 8 (5 Tet): Mở rộng hoạt động xã hội, chia sẻ khó khăn với nhân dân.

(12/02/2018 01:57:PM)

Cuộc thi quốc gia cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước – Mười năm một chặng đường

(11/06/2013 08:14:PM)

Một số hình ảnh lễ tổng kết 10 năm và trao giải lần thứ 10 Cuộc thi quốc gia cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước

(11/06/2013 06:38:AM)

Mười năm cùng cố gắng vì môi trường nước

(10/06/2013 10:48:AM)

Mời tham dự Lễ tổng kết 10 năm Cuộc thi và trao giải Cuộc thi Nước lần thứ 10

(04/06/2013 07:23:PM)

Một vài thông tin về các cuộc thi nước những năm trước đây (9)

(03/05/2013 04:10:AM)

Một vài thông tin về các cuộc thi nước những năm trước đây (8):

(30/04/2013 08:31:PM)

Một số thông tin về Cuộc thi nước những năm trước đây (7)

(30/04/2013 03:20:PM)

Một số thông tin về các cuộc thi nước những năm trước đây: (6) : 2008-2009

(28/04/2013 08:25:PM)

VIDEO

Tự hào 35 năm VACNE

Xem thêm

TRANG VÀNG MÔI TRƯỜNG VACNE