quản lý tòa nhà

logo Tạp chí TNMT-VACNE Vì Môi trường Xanh Quốc gia 2024
TẢN MẠN MÔI TRƯỜNG

Đất Tổ - Tháng ba gọi về - Kỳ cuối: Từ Thậm Thình đến Thiên Cổ Miếu

Thứ Hai, 15/06/2015 | 12:22:00 PM

(VACNE) - …“ Đi qua xóm núi Thậm Thình/ Bâng khuâng nhớ nước non mình ngàn năm”…


Bút ký của Công Thế,
Hội VH-NT Lào Cai



Từ Thậm Thình đến Thiên Cổ Miếu

  

                             …“ Đi qua xóm núi Thậm Thình

                        Bâng khuâng nhớ nước non mình ngàn năm”…

Câu thơ của cố nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi trong bài “Qua Thậm Thình” nổi tiếng, đã kích thích trí tò mò của tôi khi về đất Tổ lần này. Vậy cái xóm núi rợp mướt lũy tre xanh ấy ở đâu? Và cái gì đã làm lên hai chữ Thậm Thình huyền bí này? Tất cả những địa danh cổ xưa nơi các Vua Hùng dựng nước mãi là những kiếm tìm, của nhiều đời con cháu. Từng nhành cây, ngọn cỏ, mỏm núi, vách đá, bờ sông nơi đây chỗ nào cũng dấy lên những huyền tích linh thiêng. Để tìm cái xóm Thậm Thình tôi đã hỏi không biết bao người, đi lại đến mấy vòng nơi ngã ba trên quốc lộ 2 một ngả rẽ vào Đền Hùng, nơi gặp đại lộ Hùng Vương chạy tít về phía Thành Phố Việt Trì. Người thì nói: Chỗ ngã ba có cái tảng đá dưng lên khắc biển chữ “ Khu di tích lich sử Đền Hùng” đấy chính là Thậm Thình, người thì bảo cái xóm ven có đồi cọ xanh ngăn ngắt đấy, gặp mấy thanh niên thì lại nói chỉ có ngã ba sung sướng thôi chứ làm gì có xóm Thậm Thình…Đai loại vẫn chỉ là chung chung. Cuối cùng tôi gọi “thổ công”  Ngô Kim Đỉnh. Qua điện thoại nghe anh nói cũng cảm thấy mông lung quá. Tôi tự nhủ, thôi thì mình cứ đi, cứ tự tìm hiểu nhỡ đâu lại vỡ nhiều điều gì khác lạ hóa lại hay!

.. “Trăm cô gái tựa tiên sa

Múa chày đôi với chày ba rập rình 

Đêm đêm tiếng thậm... tiếng thình... 

Cối thơm thơm cả nghĩa tình nước non”…

Bài thơ như một giai điệu văng vẳng thôi thúc, khiến bước chân tôi cứ lần ngược mãi theo con đường láng nhựa rợp bóng cây xanh về phía Đền Hùng. Dừng chân quán nước bên gốc đa, gặp cụ già râu tóc bạc phơ, tay cầm quạt lá cọ phe phảy. Quán lợp lá đơn sơ, những chiếc bàn nghế đóng bằng loại tre già đã đượm bóng lên màu thời gian. Nhìn cụ quắc thước, uy nghi, thoảng nét hiền hậu tiên cổ. Có cảm giác ngỡ như cụ đã ngồi đấy đến cả ngàn năm trước, tay phe phẩy nhẹ nhàng như thể cho phải điệu, cho sang cái chòm râu trắng như cước kia chứ không phải chỉ lấy gió mát. “ Đã lâu lắm rồi mới lại có người hỏi tên xóm Thậm Thình, ấy là tôi nói chú đấy” Rồi cụ giơ tay chỉ và giảng giải: “ Từ đây vòng qua mé đồi có mấy cây cọ cụt ngọn bên kia, ra đến ngã ba ngoài lộ lớn là địa phận xóm Thậm Thình ngày xưa đấy! Các cụ nói lại như thế thì biết thế, chứ giờ địa hình cứ thay đổi từng ngày. Ấy mới có ít hôm không ra ngoài đó mà đã thấy khác lạ lắm, cứ ngỡ mình không phải là mình nữa. Ông cụ lại quay xuống lập cập rót cốc chè xanh mời, rồi ngẩng đầu hỏi tôi. Chú người đâu đến hả? Mà có rỗi hơi hay sao mà lại hỏi Thậm Thình làm gì? Bây giờ lên phường của thành phố cả rồi, không còn ai nhắc đến tên cũ nữa rồi!..” Ông cụ thủng thẳng nói như thể nói cho chính mình nghe, như điều chi tiếc nuối. Một sợi dây nối quá khứ với hiện tại rất mong manh, ảo ảnh, cái thì người ta muốn níu kéo, cái thì lại muốn thay đổi không biết ra sao? Sự mâu thuẫn ngay chính trong mỗi con người chúng ta.

 Theo tương truyền thì nơi đây đất đai bằng phẳng Vua Hùng lập Tổng Minh Nông chuyên ruộng đồng, dân được dạy trồng cấy lúa, trồng dâu dệt vải. Và một xóm nhỏ ven núi chuyên làm cái nhiệm vụ xay giã gạo, lập kho cất giữ lương thực để nuôi quân. Tiếng chày vang vọng thậm thình ấy trở thành tên gọi của vùng đất cổ từ đó. Thậm Thình thời ấy còn là nơi nghỉ ngơi của các quân tướng, tộc trưởng khắp nơi về chờ chầu Vua. Bởi thế Thậm Thình thời ấy đã trở thành trung tâm nhôn nhịp mua bán, trao đổi lương thực, thực phẩm và sinh hoạt văn hóa tinh thần. Đêm đêm xóm núi vang lên tiếng chày nhịp đôi, nhịp ba thậm thình, thậm thình nghe ấm áp, nhất là vào dịp lễ hội bánh chưng, bánh giầy, hình ảnh các thiếu nữ đẹp như tiên sa vung chày như múa, âm vang cả núi đồi. Một cái tên địa danh rất đỗi mộc mạc mà sao lại gợi, lại dễ nhớ, bởi nó phản ánh lên cuộc sống ấm no của một xã hội thời sơ khai. Cái tên Thậm Thình đã trải dài theo lịch sử mấy ngàn năm dựng nước của một dân tộc, trải dài cả ngàn năm Bắc thuộc phong kiến vẫn không bị mất đi, vẫn lưu truyền thì quả là sức sống mãnh liệt của bản sắc Việt không phai nhạt. Ngày nay cái tên Thập Thình cũng ít người nhắc đến, sự đổi mới sát nhập qua nhiều thời kỳ khác nhau. Và bây giờ thuộc địa phận xóm 2 Phường Vân Phú – TP Việt Trì. Song cuộc sống thương mại và dịch vụ của vùng đất này thì không ngừng phát triển, sầm uất từ cái nền tảng xưa. Cuộc sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển, du lịch dịch vụ đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương. Chỉ đi dọc đại lộ Hùng Vương một đoạn đã có đến 15 cơ sở dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn, matsagees, gội đầu, tầm quất… Khách thập phương vào mùa lễ hội về đây nườm nượp, hành hương bái Tổ. Ngã ba vẫn còn đó, rừng cọ vẫn ngát xanh, chỉ có lòng người ít nhiều đổi thay. Bây giờ người ta gọi trật xái đi thành ngã ba không mang cái sự ấm áp mà là sự phồn thực ong bướm..

Chiều xuống nhanh. Trở về khách sạn Hương Giang trên Đại lộ Hùng Vương nghỉ ngơi bàn tính chuyện đi Thiên Cổ Miếu. Khi qua ngã ba “sung sướng” phố đã nhập nhoạng lên đèn, các đèn quảng cáo, trang trí hấp dẫn, lòng như đi qua cơn mê, lơ ngơ  hiểu ra cái tên hàm ý người ta đặt cho nơi đây. Tôi vội vã bước như người mộng du. Cố giấu lừa con mắt không cho ngang dọc, cố giục bước chân thêm mải miết, cố cất cái tai như bịt lại, không nghe những gì bên các ô cửa mở, đèn xanh đỏ gọi mời. Song càng cố lại càng bị những thứ tưởng như vô thường đập vào tai, vào mắt, vào cả khiếu giác của thằng đàn ông chưa đủ tĩnh tâm, tĩnh lòng. Những ánh đèn xanh đỏ nhập nhoàng như chốn mê cung, những bóng chân dài, chân ngắn nhễ nhãi, mắt xanh, mắt đỏ cứ hồn hỗn, những nụ cười lảnh lót đập vào tai vào óc. Những dập dìu và cả mùi hăng hắc phấn son cứ nhập nhoàng chạy theo. Tôi cố chấn tĩnh xúi bàn chân bước thật nhanh và may mắn chiếc xe Taxi cũng vừa kịp đón, chạy như ma đuổi về phía cầu Việt Trì. Vừa đi vừa nghẫm sao thế nhỉ! Hay chăng do mình mệt mỏi quá mà hoa mắt, ù tai, chóng mặt mà thấy vậy? Nhưng dù sao thì cũng đã đến nơi đấy “ Xóm núi Thậm Thình” từ ngàn xưa. Và lòng nhủ lòng, học câu nói các cụ “đi một ngày đàng…” quả không uổng phí.  

Sáng hôm sau tôi dấy sớm, lên nóc tòa nhà khách sạn đợi đón bình minh, săn vài kiểu ảnh về TP ngã ba sông này. Thời gian dành cho chuyến đi thật hiếm hoi, không thể bỏ phí từng phút. Từ sân thượng tòa nhà, nhìn về hướng Tây thấy núi Hùng trong mờ sương trắng, nhìn về hướng Đông nơi khí thiêng Bạch Hạc cũng mịt mù trắng sương, Ngược hướng Bắc đất cổ Phong Châu khu công nghiệp giấy Bãi Bằng lớn nhất Việt Nam, mà những năm trước anh bạn Thụy Điển thủy chung giúp đỡ xây dựng cũng sương trắng mịt mù. Có lẽ ông giời đang chuẩn bị vận khí chuyển nước cho những trận mưa lớn rửa đền vào hội. Không đủ kiên nhẫn đợi bình minh, tôi thu xếp đồ trả phòng, trong lòng vẫn cứ thấy tiêng tiếc, ngậm ngùi vì không có cơ hội chụp bức ảnh binh minh nơi ngã ba huyền thoại.    

Đúng như hẹn, qua khu Trung tâm quảng trường Hùng Vương thì gặp anh bạn “Cố tỉ ”* Ngô Kim Đỉnh. Sau chầu cà phê cóc vỉa hè chúng tôi vòng vèo theo con phố nhỏ về hướng Phường Trưng Vương nơi tọa lạc ngôi đền Thiên Cổ Miếu linh thiêng. Tiếng là phố nhưng tên gọi  nơi đây vẫn là làng, thôn, bởi làng quê, ruộng bãi, bờ tre bến nước sân đình vẫn còn vấn vít với miền đất này. Người dân hiền lành chất phác, cuộc sông vẫn chủ yếu từ lúa ngô, từ chăn nuôi ruộng vườn. Vài năm nay do sự làng lên phố đã có ít người mở thêm các dich vụ và buôn bán nhỏ. Những nét cổ xưa của vùng đất này vẫn khá nguyên vẹn, những chiếc ao nhỏ thả lục bình mùa này hoa nở tím ngắt, những chiếc cầu ao kê đá xanh rêu, những căn nhà cổ tường gạch lở loét, đỏ ối, những cây si, cây đa, cây gạo sù sì già nua năm tháng. Chỉ thấy những thiếu nữ hôn nhiên tươi trẻ, có điều lạ, nhìn ai cũng hao hao giống nhau, nét mặt trái xoan, mắt lá răm, da trăng  má nhon nhót hồng. Đặc biệt là cái dáng người, ai cũng nhỏ nhắn lưng óng như ong mật, ngực nhưng nhức áo nâu. Tôi và anh bạn vòng vào làng, qua khu ruộng gặp mấy cô, mấy chị đang làm trên ruộng lại ngỡ mấy cô vừa gặp trong làng. Thì ra cái sự hao hao giống nhau mới nghiệm ra rằng “đất có lề quê có thói” câu nói ấy tư xưa ngẫm mà đúng ở mọi ngóc độ. Đất, nước, gió sương ngấm vào da thịt mà sinh ra dáng vóc, nuôi dưỡng con người ta trưởng thành mà ra cái tinh túy riêng biệt vùng miền. Nơi đây “Làng gái đẹp” mới đúng. Các cụ kể, đất này ngày xưa Công chúa Ngọc Hoa Và Tiên Dung đã đến dạy dân làng trồng dâu, dệt vải và dạy các thiếu nữ hát xoan, đến điệu đi, dáng đứng, nói cười rất cẩn trọng. Và nết ấy cứ truyền lại mãi, mãi cho các đời sau.

Lại nhớ lần bạn tôi rủ chuyến “phượt” ngược miền Tuyên, đến một bản hẻo lánh xa xôi. Bạn bật mí, đây quê hương “miền gái đẹp” mà mọi người vẫn nghe đồn đại. Đường núi quanh co, dốc dá lộc cộc, ghé thăm ngôi nhà sàn bên sườn núi chênh vênh, gặp cụ già ngồi bên chân cầu thang lặng lẽ, mắt nhìn vào cánh rừng xa xăm, quanh nhà mùi u uế của chất thải gia súc bốc lên nồng nặc. Những nếp gấp thời gian khắc sâu trên khuôn mặt đầy ưu tư của cụ. Thoáng nghĩ sao không phải ngày xưa đi, ngày cụ là hoa khôi nhất nhì trong vùng, đẹp đến xiêu lòng bao trai bản ngân ngơ mà ngó nghiêng thèm, tiếc. Để thấy sự phũ phàng, khắc nghiệt của thời gian cỡ nào? Mà đời người phải gánh chịu.

Nơi đấy có nguồn nước ấm màu trắng đục như sữa mẹ chảy từ trong bụng núi ra. Chiều đến nam thanh nữ tú trong bản tự nhiên đến bến của mình mà gột rửa bui bặm một ngày vất vả, ngâm mình cho thỏa thích. Trai bến trên, nữ bến dưới, cứ thế mà nô đùa, cứ thế mà nhênh nhang, thản nhiên, cứ thế mà hồn nhiên thây nẩy, trong trẻo như cây cỏ, như xa xưa vẫn vậy, tắm mà như “Tiên tắm”. Nguồn sữa mẹ ấy nuôi dưỡng nét ngọc, mày ngài làm lên nõn nà, da thịt con gái xứ này. Chả vậy mà có thời nhiều người được chiêu mộ làm cung tần mỹ nữ chốn thâm cung. Ngày ấy có yêu nhau chả lấy được nhau, lên chín lên mười đã được người lớn sắp đặt đâu vào đấy. Bởi vậy nhiều đôi yêu nhau không lấy được nhau quyết bỏ đi vào rừng, quyên sinh để sau này thành câu chuyện như cổ tích…

Và ta vẫn có nghe “Chè Thái gái Tuyên” luôn là tuyệt đỉnh. Không biết chè Thái làm nền cho sắc hương của gái Tuyên hay gái Tuyên làm sang cho chè Thái, thật là một cặp trùng tuyệt chiêu, hoàn hảo. Lúc ngâm mình xuống suối nước khoáng như lạc cõi mơ, lòng mềm mê mẩn ước. Khi về bạn nhặt viên cuội trắng bóc từ dòng suối làm kỷ niệm, còn tôi thì níu giữ nơi đây vào ký ức một vùng rừng có những bản nghèo khó như những khúc trầm. Giá như nơi này đừng cái gì động chạm đến, đừng  làm mất đi những gì là nguyên sơ của nó, cứ để nó nguyên bản của nam thanh nữ tú hồn nhiên như cây rừng kia. Và lại, giá như cuộc sống nơi đây người dân bớt đói nghèo đi, cụ già kia không cô đơn ngồi dưới chân cầu thang nhà sàn giữa rừng hiu quạnh, không rưng rưng đưa bàn tay khô khốc đón những tấm lòng hảo tâm. Song như thế thì lại một mâu thuẫn nữa trong ta nẩy sinh. Biết làm sao đây?

Được “ Thổ công” dẫn đường lên chuyến viếng thăm Thiên Cổ Miếu của tôi khá thuận lợi. Ngôi đền tuy nhỏ, khiêm nhường úp dưới bóng hai cây táu cổ thụ nhưng sự linh thiêng và cổ kính thì khá đặc biệt. Khi bước những bậc đá lên sân đền ta thấy ngay bức hoành phi đại tự lớn lấp ánh thếp vàng treo trên cửa điện chính ngôi đền “Thiên Cổ Miếu”. Hai bên đôi câu đối trạm nổi: “ Hùng Lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên trích khí linh từ” Tạm dich: Thắng tích giữa vùng Hùng Lĩnh/ Đền thiêng khí mạnh của trời Nam” Hai bên cửa võng có đôi câu đối: “Đạo học nét son ngời Lạc Việt / Văn minh dấu ấn rạng Hùng Vương” Còn nhiều những hoành phi, câu đối khác được ghi thời Vua Tự Đức năm thứ nhất 1848. Những hoành phi câu đối, cửa võng đều được ghi bằng thứ chữ Việt cổ.

Ông Nguyễn Quý Thanh,  ban quản lý khu di tích này cho biết : Ngọc Phả ngôi đền được phát hiện do vụ hỏa hoạn. Trong khi dân làng chữa cháy, cứu chạy những vật thờ thì phát hiện Ngọc phả cổ này. Căn cứ theo Ngọc phả ghi chép vào năm Hồng Phúc thứ hai đời Vua Lê Anh Tông do các Đại Học sĩ Nguyễn Bính biên soạn. Ngôi đền thờ hai vợ chồng người Thầy giáo dạy chữ thời Hùng Duê Vương:  Tên thầy là Vũ Thê Lang và người vợ là Nguyễn Thị Thục con cụ Nguyên Công quê ở Đông Ngàn –Kinh Bắc. Người vợ hiền thục, nết na giỏi nghề tơ tằm, canh cửi, đã giúp dân nơi đây nghề nông trang. Tiếng lành đồn xa, do học vấn cao, tận tụy với nghề, sống giản dị đức độ nên Thầy đồ Vũ Thê Lang được Vua Hùng giao cho chăm nom việc học hành của hai Công Chúa Ngọc Hoa Và Tiên Dung. Có một điều lạ là hai vợ chồng Thầy đồ tuy không sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm nhưng tạ thế lại cùng một giờ, cùng ngày 2 tháng 2 năm Quý Dậu ( 228 trước công nguyên). Và được người dân lập chung một mộ. Ngôi mộ đó được người dân dựng lên thành lăng và ngày nay vẫy nằm chính giữa ngôi đền dưới bệ thờ. Do vậy đền Thiên Cổ Miếu rất linh thiêng. Cho dù vật đổi sao rời hàng mấy ngàn năm, chiến tranh, giặc dã liên miên, thiên nhiên tàn phá, bao lần sửa chữa nhưng tuyệt nhiên không ai dám động đến ngôi mộ người thầy giáo. Sự linh thiêng còn ở lòng biết ơn với thầy giáo người đã có công dạy chữ cho dân làng và còn thể hiện lòng Tôn sư Trọng đạo của dân tộc Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định nền giáo dục thời Hùng Vương đã phát triển phong phú, thể hiện bằng chữ Việt cổ là chữ viết đầu tiên của mình.

Trên bệ thờ ta thấy có sáu pho tượng gỗ cổ, nổi bật là pho tượng thầy giáo Vũ Thê Lang toát lên vẻ mặt hiền hậu nhân từ, chòm râu bạc phơ như bay trong gió. Kế bên là pho tượng cụ bà Nguyễn Thị Thục, thấp hơn chút là hai công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung, mặt hoa, da phấn cùng hai thị nữ đứng chầu.

Ngôi đền tọa lạc khiêm tốn dưới bóng cây táu cổ mấy người ôm không xuể. Bóng cây chùm mát chở che, vào dịp tháng năm hai cây trổ hoa thơm ngan ngát. Một cây cho hoa trắng (bạc) một cây hoa vàng, sau mỗi con gió những bông hoa vàng bạc đó rơi xuống trải khắp sân đền cứ như có người vãi gạo tám. Người dân nơi đây tôn sùng gọi hai cây Táu là “Cụ Thần Cổ Mộc” Hiện nay một cụ hoa trắng (bạc) đang ốm yếu do tuổi tác, bênh tật, đang được các nhà khoa học tích cực cứu chữa. Còn “Cụ Táu” vàng vẫn xum xuê xanh tốt. Theo ông Thanh cho biết đó là những cái chồi mọc lên cách đây khoảng 300 năm do trận cuồng phong bẻ gãy. Ông Thanh không giấu nổi niềm tự hào: Hai “Cụ Táu” được các nhà khoa học đánh giá là cao tuổi nhất Việt Nam, khoảng 2 100 tuổi. Và vừa được suy tôn cả hai “ Cụ Táu” là Cây Di sản Việt Nam cần bảo vệ khẩn cấp. Tất cả những lẽ tự nhiên đó đã làm lên sự linh thiêng của Thiên Cổ Miếu.

         Rời Thiên Cổ Miếu tôi hiểu vì sao sự nhỏ bé về diện tích, không làm giảm đi sự linh thiêng của ngôi miếu thờ người thầy cổ nhất Việt Nam. Và điều đó càng khẳng định được sự Tôn sư Trọng đạo đã trường tồn những giá trị văn hoá, lòng yêu nước, tự tôn dân tộc của người Việt chúng ta.

   Tác giả chụp lưu niệm cùng GS. TSKH Đặng Huy Huỳnh, Chủ tich Hội đồng Cây Di sản Việt Nam

 

Ngày giỗ Tổ năm Ất Mùi                                                           

Công Thế, Hội VH-NT Lào Cai

Lượt xem: 2805

Các tin khác

Thơ Xuân quên

(24/01/2025 06:41:PM)

Cảm thông

(19/01/2025 07:03:PM)

Gala cuối năm

(11/01/2025 10:43:PM)

TẤM LÒNG

(07/01/2025 10:42:AM)

Mừng Lo

(06/01/2025 10:01:AM)

Thành phố xanh

(03/01/2025 10:06:AM)

Cây Trâm mốc

(22/12/2024 11:54:PM)

Môi trường

(20/12/2024 08:45:PM)

Bẩy tư

(11/12/2024 10:11:AM)

VIDEO

Tự hào 35 năm VACNE

Xem thêm

TRANG VÀNG MÔI TRƯỜNG VACNE