Trong giai đoạn phát triển mới của Việt Nam và Lào, VACNE mong muốnđược tiếp tục đóng góp công sức của mình thông qua những công việc khả thi và có nhiều ý nghĩa trong lĩnh vực BVMT&PTBV của cả 2 nước.
GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh và TS. Nguyễn Ngọc Sinh
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE)
MỞ ĐẦU
Là một tổ chức quần chúng được thành lập từ năm 1988, Hội bảo vệ Thiênnhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) đã không ngừng phấn đấu cho sựnghiệp bảo vệ môi trường (BVMT) và phát triển bền vững (PTBV) của đấtnước. Nhiều hội viên của Hội đã từng là chí nguyện quân Việt Nam tạiLào, đã từng là những cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, nhà giáo cónhững đóng góp cụ thể cho cho việc xây dụng và phát triển mối tình hữu nghị đặc biệt Việt Lào trong thời gian qua.
Trong giai đoạn phát triển mới của Việt Nam và Lào, VACNE mong muốnđược tiếp tục đóng góp công sức của mình thông qua những công việc khả thi và có nhiều ý nghĩa trong lĩnh vực BVMT&PTBV của cả 2 nước.
I. Quan hệ môi trường đặc biệt Việt Lào
1.1. Chung chiến hào, chung dòng sông khối núi
Lịch sử đã gắn kết 2 đất nước, 2 dân tộc chúng ta cùng trong một chiến ào. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã khái quát rất chí lý rằng:
Việt Lào hai nước chúng ta
Tình sâu như nước Hồng Hà Cửu Long
Chúng ta cùng chung dòng sông Mẹ vĩ đại, cùng dựa vào dãy núi Trườngsơn hùng vĩ. Núi tiếp núi,rừng nối rừng, sông liền sông. Chúng ta cùng một thiên nhiên, cùng một môi trường, cùng chung sự đa dạng sinh học hàng đầu thế giới. Chúng ta tuy hai mà một.
1.2. Việt Nam - nhà đầu tư hàng đầu vào Lào
Theo số liệu thống kê tính đến hết quý I/2012, đã có tổng cộng 212 dự án của Việt Nam được đầu tư vào Lào. Với tổng vốn đạt 3,45 tỷ USD, Việt Nam hiện là nhà đầu tư lớn thứ 2 tại Lào, còn Lào giữ vị trí số 1 trong tổng số 55 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam. Điều đáng nói ở đây là, hơn 1/2 số dự án đầu tư của Việt Nam tại Lào liên quan đến năng lượng, nông lâm nghiệp và khai khoáng là những lĩnh vực trực tiếp thuộc phạm trù môi trường.
1.3 Hợp tác đầu tư phát triển kinh tế phải gắn liền với BVMT
Việt Nam và Lào đều lựa chọn con đường PTBV. Cả 2 nước đều nhận thức rõ mối quan hệ giữa môi trường và phát triển. Cũng như đối với Lào, Chiến lược BVMT quốc gia của Việt Nam chỉ rõ: " Môi trường quốc gia liên quan đến môi trường khu vực và toàn cầu, vì vậy sự nghiệp BVMT của Việt Nam liên quan đến sự nghiệp BVMT trong khu vực và trên toàn thế giới...Cần ưu tiên mở rộng quan hệ quốc tế về BVMT trong phạm vi khu vực dưới hình thức thiết lập các chương trình, dự án đa phương và song phương. Đạc biệt, chú ý mở rộng quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi trong lĩnh vực BVMT với các nước láng giềng".
Càng đầu tư phát triển kinh tế càng phải chú trọng BVMT. Các nhà đầu tư Việt Nam sang Lào phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ pháp luật của cả Lào và Việt Nam về BVMT&PTBV, cũng như các công ước quốc tế liên quan mà 2 nước đã ký kết. Những vấn đề môi trường của hai nước là những vấn đề chung mà các nhà đầu tư phải nắm bắt tương tự như những vấn đề kinh tế trong quá trình hoạt động của mình.
II. Những vấn nạn môi trường nghiêm trọng nhất mà Việt Nam và Lào đang cùng gánh chịu
Có không ít những vấn nạn môi trường mà Việt Nam và Lào cùng đang phải gánh chịu. Những vấn nạn đó liên quan đến môi trường nói chung cũng như từng thành phần nói riêng như rừng, đa dạng sinh học, khoáng sản, nguồn nước,v.v. Dưới đây xin nêu 3 vấn nạn vào loại nghiêm trọng nhất.
2.1 Vấn nạn buôn bán, vận chuyển trái phép động thực vật hoang dã xuyên biên giới
Đã có rất nhiều số liệu nói về vấn nạn buôn bán vận chuyển trái phép gỗ, lâm sản và đặc biệt là động vật hoang dã qua biên giới Việt Lào và các biên giới khác trong khu vực. Có số liệu ước tính cho rằng riêng thị trường buôn bán động vật hoang dã đã lên tới 5 - 20 tỷ USD/năm.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, riêng tại cửa khẩu Việt Lào ở Đắc Lắc đã bắt giữ 142 vụ vận chuyển trái phép với 1700 m3 gỗ.Cần biết thêm rằng, theo cơ quan cảnh sát quốc tế, số vụ việc được phát hiện chỉ chiếm không quá 10% tổng số ( phần nổi của tảng băng chìm ), sẽ thấy rằng thế giới đông thực vật hoang dã quanh ta đang bị tàn sát ghê gớm đến chừng nào.
Hãy nhìn các đoàn xe vận tải ùn ùn qua biên giới, các kiện hàng đóng kín chất như núi ở các sân bay, bến cảng, trong đó có thể có không ít các các kiện hàng chứa động thực vật hoang dã bị cấm vận chuyển, sẽ thấy rõ hơn quy mô của vấn nạn này. Nhiều dự báo khoa học cho rằng, nếu không ngăn chặn được vấn nạn, 42% các loài đọng thực vật hoang dã ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam và Lào, sẽ biến mất trong thế kỷ này, ít nhất cũng là 13%.
Ảnh 1. Xe chở gỗ qua biên giới. Ảnh: GT
2.2. Tham vọng khai thác thủy năng sông Mê Kông
Mê Kông là dòng sông mẹ của cả Lào, Việt Nam và nhiều nước khác. Mê Kông có tiềm năng to lớn về thủy năng, thủy sản, giao thông,…
Theo Báo cáo của Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam, sự gia tăng nhanh chóng việc sử dụng nước trong lưu vực sông Mê Kông ngày càng dáng lo ngại. Cùng với việc Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các dự án thủy điện ở Vân Nam, thì Lào đã chính thức thông báo kế hoạch xây dựng công trình thủy điện dòng chính Xayaburi, công trình đầu tiên trong chuỗi 11 công trình thủy điện dự kiến xây dựng trên dòng chính hạ lưu sông Mê Kông. Thái Lan và Campuchia cũng đang tăng cường chuẩn bị các công trình của mình. Nếu tất cả các đập này đều được xây dựng thì sẽ dẫn tới một thảm họa an ninh con người. Đồng bằng sông Mê Kông là nơi cư trú của khoảng 20 triệu người và có hồ lớn là Tonle Sap, một trong những nguồn cung cấp thủy sản chính cho Campuchia. Nhìn từ khía cạnh nong nghiệp, việc xây dựng đập thủy điện sẽ tác động đến lượng chất màu tự nhiên theo dòng sông chảy xuống cũng như ảnh hưởng đến nguồn cá ở Tonle Sap. Nếu tất cả các đập được xây dựng, nguồn thủy sản của sông Mê Kông có thể bị tiêu diệt.
Về mặt con người, sẽ dẫn đến nạn đói và mất mát về sinh kế. Hầu hết người dân ở lưu vực sông Mê Kông dựa vào thủy sản sông làm nguồn cung cấp protein chính. Nguồn cá còn là một nguồn thu nhập bổ sung cho dân địa phương. Khi bị mất đi, nguồn lợi này rất khó thay thế và chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng đói kém. và đấy là điều mà cả Việt Nam và Lào đều không mong muốn.
Sơ đồ 1. Hệ thống các đập thủy điện đã, đang và sẽ xây trên dòng chính và chi lưu sông Mê Kông.
Nguồn: Ủy hội sông Mê Kông, 9/2008.
2.3. Báo động tuyệt chủng Sao la
Sao la (Pseudoryx nghetinhensis Dung et al.1993) niềm tự hào của đa dạng sinh học dãy Trường Sơn, biểu tượng của công tác bảo tồn của Việt Nam và Lào.
Nếu những con số ước tính là đúng, thì sau 20 năm kể từ khi được phát hiện năm 1992, số lượng cá thể Sao La đã từ 500 giảm xuống còn 200, nghĩa là trung bình mỗi năm thế giới mất 15 cá thể trên tổng số rất khiêm tốn.Sách Đỏ Việt Nam nâng cấp Sao la từ Nguy cấp lên Rất nguy cấp. Đối với các loài động vật loại này, số lượng 200 là số lượng bên bờ vực tuyệt chủng.
IUCN đánh giá rằng nguy cơ tuyệt chủng của Sao La ở Trường Sơn tương tự như của Tê Giác ở Đông Nam Á. Tê Giác 1 sừng ở Việt Nam đã được WWF tuyên bố tuyệt chủng rồi. Còn số phận Sao La phụ thuộc vào 4 đe dọa chính đối với các quần thể Sao La ở Việt Nam và Lào.
Trước hết, đó là việc bẫy bắt động vật rừng hiện vẫn diễn ra phổ biến, bất chấp tất cả. Tiếp đến là việc săn bắn động vật rừng,đặc biệt khi có chó săn đi cùng. Nạn buôn bán động vật hoang dã được xếp ở vị trí thứ 3, tiếp sau là tình trạng sinh cảnh bị suy thoái, phân mảnh và mất liên kết. Nguyên nhân sâu xa của những đe dọa trên là năng lục quản lý yếu kém, nhận thức bảo tồn thấp và đời sống còn khó khăn của người dân.
Cá thể Sao la gần đây nhất dược biết đến là ở tỉnh Bolikhamxay, Lào vào tháng 8 năm 2010. Làm sao để Sao la mãi là biểu tượng của đa dạng sinh học và niềm tự hào của công tác công tác bảo tồn ở Việt Nam và Lào ? Điều đó phụ thuộc vào hành động của mỗi người chúng ta.
Ảnh 2. Cá thể Sao la tại tỉnh Bolikhamxay, Lào cuối năm 2010. Ảnh: BPCU
III. Cộng đồng Việt-Lào chung sức bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững
Sự nghiệp BVMT&PTBV đất nước luôn đòi hỏi nỗ lực không ngừng của cả thế giới, của mỗi quốc gia, từng địa phương, từng ngành và của mỗi người. Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất Rio+20 vừa qua tái khẳng định con đường PTBV mà loài người đã chọn và cổ vũ cho việc phát triển nền kinh tế xanh của các nước. VACNE khuyến nghị ba giải pháp vừa sức, khả thi và có ý nghĩa vô cùng quan trọng để cộng đồng Việt-Lào cùng đóng góp vào nỗ lực chung mà hai nước đang phấn đấu. Ba giải pháp không phải là nhiều nhưng cũng đòi hỏi sự hỗ trợ, phối hợp, tạo điều kiện và cùng tham gia của các bộ ngành và địa phương hai nước, của các tổ chức quốc tế và khu vực và của các tổ chức phi chính phủ quan tâm.
3.1. Cùng phối hợp tổ chức thường niên Hội thảo Khoa học Bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn
Dãy Trường Sơn là của chung hai nước Việt-Lào. Trường Sơn có đa dạng sinh học vào loại cao nhất, phong phú nhất của thế giới. Trường Sơn có nhiều tiềm năng để ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Do vậy, bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam và Lào và của cả thế giới nói chung. Nhận thức được điều này, VACNE đã khởi xướng việc tổ chức Hội thảo Khoa học Bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn từ năm 2008. Đến nay đã tổ chức được 4 lần. Lần nào cũng có sự tham gia của các đại diện Lào và quốc tế. Sự kiện này cần được duy trì và thực hiện hàng năm, vừa nâng cao nhận thức cộng đồng hai nước về bảo vệ môi trường vừa góp phần bảo vệ Sao La và các loài đặc hữu khác. Sắp tới Hội chúng tôi lựa chọn chủ đề bảo tồn hệ sinh thái rừng khộp để tổ chức hội thảo lần thứ 5 và thảo luận việc khẩn trương xây dựng các khu bảo tồn và vườn quốc gia xuyên biên giới Việt-Lào. Sự tham gia của Lào và các nước khác sẽ đảm bảo thành công cho sự kiện quan trọng này.

Ảnh 3. Hội thảo Bảo tồn Đa dạng sinh học dãy Trường Sơn lần thứ nhất
được tổ chức tại Huế năm 2008
(trên Đoàn Chủ tịch có đại diện Việt Nam, Lào, Campuchia và các tổ chức quốc tế IUCN, WWF)
3.2. Cùng tham giam giám sát, kiểm soát việc buôn bán vận chuyển động thực vật hoang dã xuyên biên giới
Cộng đồng Việt-Lào hoan nghênh và ủng hộ nỗ lực của chính quyền hai nước trong việc ngăn chặn, quản lý và kiểm soát việc buôn bán, vận chuyển trái phép động thực vật hoang dã xuyên biên giới. Cộng đồng có mặt ở khắp nơi, ủng hỗ những kế hoạch hành động chung giữa các tỉnh biên giới trong việc giải quyết vấn nạn này như mô hình vừa ký kết của Quảng Trị và Xa va na khét với 206km đường biên giới chung. Việc vận động quần chúng, huy động cộng đồng đi liền với việc tăng cường thực thi pháp luật sẽ có thể đem lại những kết quả không ngờ. Thực tế ở các nước và ở ngay Việt Nam và Lào đều cho thấy như vậy.
3.3. Cùng vận động việc nhanh chóng tổ chức nghiên cứu vấn đề an ninh môi trường trong bối cảnh khai thác lưu vực Mê Kông
Các nước trong khu vực hạ lưu Mê Kông đều có nhu cầu chính đáng khai thác thế mạnh con sông này phục vụ cuộc sống của nhân dân và sự phát triển của đất nước mình. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay và để phát triển bền vững, nhu cầu chính đáng của mỗi quốc gia trong lưu vực đều cần đặt trong bối cảnh chung của các quốc gia khác. Việc chia sẻ trách nhiệm bảo vệ và quyền lợi được hưởng trong lưu vực sông là vấn đề không hề đơn giản, nếu giải quyết không thỏa đáng sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, lâu dài. Cộng đồng Việt-Lào cùng nhau phối hợp, vận đồng và kêu gọi sự đầu tư cho việc nghiên cứu một trong những vấn đề quan trọng là an ninh môi trường trong bối cảnh tăng cường khai thác lưu vực sông Mê Kông. Nếu được hỗ trợ và tạo điều kiện, cộng đồng hai nước có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ khó khăn này. Tiếng nói khoa học, độc lập của cộng đồng hai nước là cơ sở quan trọng để các nhà chức trách nghiên cứu giải quyết vấn nạn về tham vọng khai thác thủy năng sông Mê Kông như đã nêu.
KẾT LUẬN
Lần đầu tiên VACNE có cơ hội để trình bày vắn tắt một số nội dung chính liên quan đến BVMT&PTBV của hai nước nhìn từ góc độ cộng đồng. Hy vọng rằng cộng đồng hai nước còn có nhiều cơ hội để cùng nhau bày tỏ nguyện vọng, cùng nhau chung sức để giải quyết các vấn đề liên quan, trước mắt là những vấn nạn hàng đầu về môi trường mà hai nước đang phải gánh chịu. Thông qua việc thực hiện những kiến nghị đã nêu và những việc làm tương tự về môi trường, cộng đồng Việt - Lào đã thực hiện được việc đầu tư phát triển bền vững hai nước theo cách của riêng mình.