quản lý tòa nhà

logo Tạp chí TNMT-VACNE Vì Môi trường Xanh Quốc gia 2024
HỘI THẢO KHOA HỌC CỦA HỘI

Biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên

Thứ Ba, 24/11/2009 | 10:08:00 PM

Trong bối cảnh Việt Nam được đánh giá là một trong 5 quốc gia chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu (BĐKH), những nghiên cứu chuyên sâu, xác định mức độ BĐKH cũng như mức độ ảnh hưởng của nó ở từng khu vực, nhằm định ra các biện pháp ứng phó phù hợp với diễn biến mới nhất của BĐKHlà rất cần thiết, có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển bền vững kinh tế xã hội, môi trường và dân sinh. Với khu vực Trường Sơn, nơi hệ sinh thái được coi là phong phú, đa dạng vào bậc nhất ở Việt Nam, việc đánh giá này càng có ý nghĩa lớn trong hoạch định chiến lược bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học trong khu vực vốn đang bị đe dọa nghiêm trọng trước tác động của con người và BĐKH.

 
 
TS. Phạm Đức Thi
KS. Nguyễn Thu Bình
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
 
 
 
I. Diễn biến của nhiệt độ:
 
Trong phạm vi bài viết này, các tác giả chủ yếu phân tích diễn biến của yếu tố nhiệt độ để đánh giá BĐKH đã thể hiện ở mức độ nào trên địa bàn Nam Trung Bộ-Tây Nguyên.
Do đa số trạm khí tượng trong khu vực nghiên cứu mới được thành lập, các tác giả đã lựa chọn 10 trạm có số liệu quan trắc từ 30-33 năm, trong phạm vi kinh độ: 107.41-108.39 và vĩ độ: 11.32-11.58, để tính toán, phân tích. Ngoài ra, tuy 3 trạm Đắc Tô, Liên Khương, Buôn Hồ có số năm quan trắc dưới 30 năm vẫn được đưa vào sử dụng trong phân tích.
 
 
 
     Bảng 1: Chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa thập niên 1999-2008 và 1979-1988 của
            các tháng 1, 4, 7, 10,  thời kỳ chính đông (tháng 12-2), chính hè (tháng 6-8) và năm
 
 
Trạm
Tháng
3 tháng
 
TT
 
1
4
7
10
Chính đông
(12-1)
Chính hè
(6-8)
Năm
1
Phan Thiết (Bình Thuận)
(8,712m)
0.8
0.3
0
0.4
0.63
 
0.07
 
0.30
 
2
Hàm Tân (Bình Thuận)
(15,086m)
0.6
0.1
0.2
0.2
0.64
 
0.13
 
0.30
 
3
Aynpa (Gia Lai)
(159,697m)
1.3
-0.2
0.4
0.5
0.84
 
0.44
 
0.50
 
4
An Khê (Gia Lai)
(422,156m)
1.1
0.4
1.1
(0.50)
0.67
 
0.60
 
0.40
 
5
Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc)
(470,298m)
0.5
-0.3
0.3
0.2
0.26
 
0.20
 
0.10
 
6
Kon Tum (Kon Tum)
(537,552m)
1.7
0.2
0.4
0.7
1.27
 
0.44
 
1.00
 
7
Đắc Tô (Kon Tum)*
(620,351m)
1.6
0.1
1.0
(0.90)
1.40
 
0.70
 
0.50
 
8
Đắc Nông (Đắc Nông)
(630,985m)
1.5
0.5
0.6
0.7
1.17
 
0.54
 
0.80
 
9
Buôn Hồ (Đắc Lắc)*
(707,169m)
1.2
0.4
0.6
0.6
0.90
 
0.66
 
0.60
 
10
Plei Ku (Gia Lai)
(778,870m)
1.0
0
0.1
0.3
1.76
 
0.23
 
0.60
 
11
Bảo Lộc (Lâm Đồng)
(840,433m)
0.7
0.2
-0.1
(0.10)
0.50
 
-0.04
 
0.20
 
12
Liên Khương (Lâm Đồng)*
(957,172m)
0.4
(0.30)
0
 
(0.30)
0.23
 
(0.03)
(0.10)
13
Đà Lạt (Lâm Đồng)
(1508,563m)
0.5
(0.30)
(0.30)
 (0.40)
0.30
 
-0.07
 
(0.20)
 
*Ghi chú:Thời kỳ quan trắc của các trạm Đắc Tô, Liên Khương: 1981-2008; Buôn Hồ: 1982-2008
 
Bảng 1 được thiết lập qua các bước:
-         Tính giá trị nhiệt độ trung bình nhiều năm (1979-2008) của các tháng, thời kỳ chính đông (tháng 12-2), thời kỳ chính hè (tháng 6-8) và năm của 13 trạm;
-         Tính giá trị nhiệt độ trung bình ba thập niên: 1979-1988; 1989-1998 và 1999-2008 của các đặc trưng trên và tính chuẩn sai giữa chúng với giá trị trung bình nhiều năm;
-         So sánh chuẩn sai nhiệt độ giữa 2 thập niên (1999-2008) và (1979-1988).
 
Từ bảng 1 (thứ tự các trạm được sắp xếp theo độ cao tăng dần) ta thấy, so với thập niên 1979-1988, nhiệt độ không khí trung bình thập niên 1999-2008 cao hơn rõ rệt, nhất là vào các tháng mùa đông và trên độ cao từ 100 - 800 m.
 
-         Nhiệt độ trung bình năm phổ biến cao hơn từ 0.5-0.8oC, riêng Kon Tum, cao hơn 1oC. Điều này phù hợp với số liệu công bố của Bộ Tài nguyên và Môi trường: trong khoảng 50 năm qua (1958-2007), nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 0.5-0.7oC (“Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam”).
 
-         Nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông cao hơn hẳn so với các thời kỳ khác, tiêu biểu là tháng 1, phổ biến cao hơn từ 0.8-1.5oC, cá biệt có trạm cao hơn 1.7oC (Kon Tum). Trong 3 tháng chính đông (tháng 12-2), nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0.8-1.4oC, riêng Plei Ku (Gia Lai), cao hơn 1.76oC.
 
-         Trong các tháng mùa hè, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn 0.4-0.7oC. Trong các tháng chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10), mức tăng của nhiệt độ thấp hơn và không đều giữa các trạm.
 
-         Các số liệu màu đỏ trong ngoặc đơn của một số trạm, như Liên Khương, Đà Lạt ... , là chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa thập niên 1999 – 2008 và thập niên trước đó (1989-1998). Ở các trạm trên, nhiệt độ phổ biến tăng 0.2-0.4oC, riêng tại Đắc Tô tăng tới 0.9oC (tháng 10), khẳng định sự tăng của nhiệt độ xảy ra ở tất cả các trạm. 
 
Vậy là, nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn mùa hè rõ rệt, phù hợp với nhận định trong “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam”. Điều này được minh họa rõ trong các biểu đồ diễn biến nhiệt độ của ba trạm: Phan Thiết ở bờ biển, Kon Tum (độ cao trên 500m) và Đà Lạt (độ cao trên 1500m).
 
 
 
         Tại các trạm trên, nhiệt độ mười năm cuối (1999-2008) cao hơn so với hai chục năm trước, đặc biệt thể hiện rõ tại trạm Kon Tum, nhất là trong tháng 1.





 


II. Nhiệt độ tăng có ảnh hưởng đến đa dạng sinh học tại Nam Trung Bộ-Tây Nguyên?
 
Các nhà khoa học trên thế giới nhận định, do nóng lên toàn cầu, các ranh giới nhiệt của các hệ sinh thái lục địa và nước ngọt sẽ dịch chuyển về phía cực, đồng thời cũng dịch chuyển lên cao hơn. Khi ấy các loài thực vật, động vật nhiệt đới có thể phát triển ở các vĩ độ cao hơn hoặc trên những vùng núi và cao nguyên cao hơn trước. Trái lại, các loài ưa lạnh bị thu hẹp lại, hoặc phải di cư đi nơi khác.
 
Tại Trung Quốc, giai đoạn 2001-2005, nhiệt độ lưu vực sông Dương Tử mới tăng ở mức 0,71 oC, các nhà khoa học đã cảnh báo “Nhiệt độ tăng đồng nghĩa với sự suy giảm đa dạng sinh học” trong khu vực này (Nguồn: “Báo động biến đổi sông Dương Tử” - VACNE, 13/11/2009).
 
Còn ở Việt Nam? Suy giảm đa dạng sinh học đã được nhiều nhà khoa học báo động trong nhiều công trình nghiên cứu từ nhiều năm trước. Song, còn rất hiếm những công trình khảo sát, nghiên cứu khẳng định mức độ tác động của BĐKH đến đa dạng sinh học. Trong bài viết “Bảo vệ đa dạng sinh học trước tác động của biến đổi khí hậu”, GS Võ Quý nhấn mạnh: “Hậu quả do BĐKH toàn cầu gây ra ngày một rõ ràng, trong đó có tác động lên đa dạng sinh học, nguồn tài nguyên quý giá của đất n­ước nhưng chúng ta cũng chư­a nghiên cứu về lĩnh vực này một cách nghiêm túc” ((Nguồn: “Bảo vệ đa dạng sinh học trước tác động của biến đổi khí hậuVACNE - 17/11/2009).
 
Đây là công việc cấp bách nhưng không phải dễ dàng đối các nhà khoa học. Tuy nhiên, bằng những số liệu và cả bằng cảm nhận của mình, các nhà khoa học cũng như nhiều người dân đã thấy rõ tác động của BĐKH đối với đa dạng sinh học.
 
Có thể dẫn ví dụ tại một tỉnh ở vùng núi Bắc Bộ, tỉnh Lào Cai. Theo nhận xét của ông Lưu Minh Hải, Phó giám đốc Trung tâm khí tượng thủy văn Lào Cai, từ đầu năm 2009 đến tháng 7, ở Lào Cai đã diễn ra tám đợt nắng nóng với nhiệt độ cao nhất đạt 38.5oC (Ở TP Lào Cai và huyện Bảo Yên); ở “xứ lạnh” Sa Pa nhiệt độ cũng lên cao tới 27,2 độ C. Hiện tượng dị thường của thời tiết, sự nắng nóng khác thường nêu trên chứng tỏ sự nóng dần lên của khí hậu toàn cầu, trong đó Lào Cai đã chịu tác động khá rõ rệt.
 
Ông Phạm Văn Đăng, Giám đốc Vườn quốc gia Hoàng Liên cho biết, theo kết quả điều tra sơ bộ của Ban quản lý Vườn quốc gia Hoàng Liên (tiến hành từ năm 2003 - 2007), hiện đang có sự dịch chuyển lên cao của một số loài cây đặc trưng thuộc các vành đai thực vật (phân bổ theo độ cao) khác nhau. Tiêu biểu trong số đó có thông Vân Sam Hoàng Liên, một loài thông chỉ tìm thấy duy nhất tại Hoàng Liên Sơn và được ghi trong sách đỏ thế giới, trước đây chỉ sinh trưởng ở độ cao 2.200m - 2.400m, thì nay chỉ có thể gặp ở độ cao 2.400m - 2.700m. Một số loài cây đặc hữu khác (chỉ có ở Hoàng Liên Sơn) như Thích Xi Pan, Thích Sa Pa (trước đây chỉ sinh trưởng ở độ cao dưới 1.700m) nay đã bắt gặp ở độ cao trên 2.000m và nhiều loài thực vật khác cũng đang “leo” dần lên cao chiếm chỗ của các loài cây đặc hữu xứ lạnh (Nguồn: Quốc Hồng – NDĐT ngày 21-08-2009).
 
Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Lâm Đồng, khí hậu (điều hòa, mát mẻ, trong lành) - tài sản lớn nhất của Đà Lạt - đang bị đe dọa chưa từng có trong lịch sử hình thành đô thị cao nguyên này. Kỹ sư Mai Quốc Việt, phó giám đốc trung tâm nhận xét, nhiệt độ ở thành phố Đà Lạt đang nóng dần lên, sự khắc nghiệt gia tăng với biên độ nhiệt dãn cách đột biến chưa từng thấy: chênh nhau giữa nhiệt độ cao nhất và thấp nhất bình quân từ 8-10 độ những năm trước lên 12-15 độ. Ngay cả kỳ El Nino khốc liệt vào năm 1997, khí hậu Đà Lạt cũng không rơi vào tình cảnh như hiện tại.
 
Tác giả Phạm Xuân Thành trong bài Đà Lạt nóng!” dẫn lời ông Hai Phúc (ở khu Cô Giang), người như “đếm” được sự chuyển biến đang diễn ra của trời đất Đà Lạt từng năm: Đến môi trường sinh thái, vườn tược cũng thay đổi dần đặc trưng vốn có của nó. Như sâu bệnh lạ xuất hiện nhiều hơn những mùa vụ gần đây. Không riêng sâu bệnh phát sinh phức tạp trên cây trồng, vật nuôi, nội riêng cây ngo (thông) thôi, mọi năm cứ dịp sau Noel người Đà Lạt thấy tuôn đầy đọt non (kỳ đỉnh sinh trưởng mới phát triển), còn năm nay (2007) đến cuối tháng hai đầu tháng ba dương lịch như thế này mới ra đọt, mà lại còn ra không tuôn trào, cứ lỏi chỏi. Các thứ cây chịu nóng miền đồng bằng dưới kia như đu đủ, mít, mía, phượng hồng... không thể trồng ở Đà Lạt thì giờ đã thấy xuất hiện nhan nhản. Nghĩa là trồng “vô tư”; vẫn trổ bông, đơm trái. Ngay cả loài hoa đặc trưng của cao nguyên Lang Bian là mai anh đào ngày trước cứ Tết dương lịch là thấy trổ đều khắp phố phường, thì giờ mỗi năm trổ mỗi khác, không theo qui luật chu kỳ nào cả, không ai còn đoán định cụ thể được thời điểm nó trổ hoa. (Nguồn “Đà Lạt nóng!” - Tuổi Trẻ ngày 6-3-2007).
 
Đà Lạt, với mức độ tăng của nhiệt độ không cao như đã thể hiện trong bảng 1 và trên biểu đồ diễn biến nhiệt độ, mà hệ sinh thái đã có những biến động lớn như vậy, thì với mức tăng cao của nhiệt độ trên độ cao từ 100 - 800m, hệ sinh thái biến động đến mức nào? Câu hỏi này đòi hỏi các nhà khoa học phải làm sáng tỏ.
 
Từ hai ví dụ trên chúng ta thấy, hiện tại đã có những ”chuyển động” của hệ sinh thái ở những vùng núi tại Việt Nam. Dãy Trường Sơn không thể đứng ngoài ”chuyển động” đó.
 
Từ kịch bản BĐKH (theo phát thải trung bình), đến năm 2050, nhiệt độ tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên tăng từ 0.8 – 1.0oC và đến năm 2100, tăng 1.7 – 2.2oC, có thể nhận định, BĐKH sẽ gia tăng mạnh ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên với nhiều loại thiên tai khắc nghiệt hơn, là nguyên nhân chính gây ra sự thay đổi hệ thống sinh thái trong khu vực. Các nghiên cứu cơ bản, cả về hệ quả của BĐKH, cả về hệ sinh thái, là rất cần thiết để xây dựng một Chương trình ứng phó toàn diện với BĐKH nhằm bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học ở Nam Trung Bộ - Tây Nguyên, nói riêng và dải Trường Sơn, nói chung.
 
 

Lượt xem: 2814

Các tin khác

Bài 8 (5 Tet): Mở rộng hoạt động xã hội, chia sẻ khó khăn với nhân dân.

(12/02/2018 01:57:PM)

Cuộc thi quốc gia cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước – Mười năm một chặng đường

(11/06/2013 08:14:PM)

Một số hình ảnh lễ tổng kết 10 năm và trao giải lần thứ 10 Cuộc thi quốc gia cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước

(11/06/2013 06:38:AM)

Mười năm cùng cố gắng vì môi trường nước

(10/06/2013 10:48:AM)

Mời tham dự Lễ tổng kết 10 năm Cuộc thi và trao giải Cuộc thi Nước lần thứ 10

(04/06/2013 07:23:PM)

Một vài thông tin về các cuộc thi nước những năm trước đây (9)

(03/05/2013 04:10:AM)

Một vài thông tin về các cuộc thi nước những năm trước đây (8):

(30/04/2013 08:31:PM)

Một số thông tin về Cuộc thi nước những năm trước đây (7)

(30/04/2013 03:20:PM)

Một số thông tin về các cuộc thi nước những năm trước đây: (6) : 2008-2009

(28/04/2013 08:25:PM)

VIDEO

Tự hào 35 năm VACNE

Xem thêm

TRANG VÀNG MÔI TRƯỜNG VACNE