Tham luận của GS.TSKH. Trương Quang Học tại Hội thảo Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII”
(VACNE) - Xin giới thiệu tham luận cuả GS.TSKH. Trương Quang Học, Ủy viên Thường vụ, Phó trưởng Ban Cộng đồng bền vững Hội Bảo vệ TN&MT Việt Nam tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII” do Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam tổ chức tại TP. Hưng Yên, ngày 5/11/2015
Kinh thưa: Đoàn chủ tich Hội thảo
Kinh thưa các qúy vị đại biểu
Theo yêu cầu của Ban Tổ chức, phát biểu của tôi sẽ tập trung vào chủ đề: Quản lý tài nguyên, Bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong dự thảo Văn kiện, chủ đề này được dành riêng 1 chương (Chương IX). Thực ra, vấn đề đã được thể hiện đầy đủ trong một nghị quyết của Đảng - Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường...
Trong văn kiện, nội dung của NQ này về cơ bản vẫn được giữ nguyên và được thể hiện ngắn gọn, nhưng khá đầy đủ. Tôi đánh giá cao về mặt nội dung và cách tiếp cận vấn đề.
1. Về đánh giá hiện trang
VK đã nhìn thẳng vào vấn đề: i) trong thời gian qua, chúng ta phát triển không bền vững cả về Kinh tế, Xã hội và nhất là Môi trường; ii) Ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản; iii) Tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững, một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt; iii) Ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm; đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe và đời sống nhân dân. Theo tôi, đây là một điểm mới quan trọng trong văn kiên lần này (nhìn thẳng vào sự thật).
2. Phần đánh giá nguyên nhân và định hướng cho giai đoạn tới
Còn thiếu tính đột phá, chưa đi thẳng vào những nguyên nhân của mọi nguyên nhân, còn chung chung, thiếu cụ thể và vì vậy, các định hướng cũng mang tính chất chỉ đạo chung chung, rất khó đi vào thực tiễn (như xưa nay ta vẫn làm).
3. Góp ý: tôi xin đi thẳng vào vấn đề trong 2 nhóm ý kiến:
a. Nhóm ý kiến về Quản lý tài nguyên, Bảo vệ môi trường và ứng phó với BĐKH – trụ cột quan trọng của PTBV
Có 4 ý kiến:
i) Cập nhật thông tin/ bối cảnh quốc tế: năm 2015 có 3 điểm mới cần nhấn mạnh trong VBNQ: i) Mục tiêu và chỉ tiêu PTBV cho giai đoạn 2016-2030 mà Hội nghị thượng đỉnh của LHQ vừa thông qua, trong đó có 6 mục tiêu liên quan tới TN, MT và BĐKH mà Việt Nam đã rất tích cực đóng góp; ii) Cam kết mới về ứng phó với BĐKH (sẽ được thông qua tại COP 21 ở Paris, tháng 12 sắp tới). Đây là bước chuyển mới trong cuộc chiến với BĐKH. Việt Nam đã nộp Cam kết quốc gia giảm phát thải KNK tự nguyện (INDC) cho Ban Thư ký UNFCCC ngày 29.10.2015; iii) Vấn đề năng lượng: Trong thời đại năng lượng-khí hậu hiện nay, vấn đề sử dung năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo sẽ trở thành tiêu điểm quan tâm toàn cầu, là lĩnh vực chạy đua của các quốc gia.
Trong VKĐH cần cập nhật và có phương hướng cho ba vấn đề mới và quan trọng này. Theo tôi, “Đảm bảo chất lượng môi trường và tăng cường khả năng chong chịu với BĐKH là chìa khóa đề PTBV của VN”.
ii) Vấn đề Phát triển bền vững: Kết quả hơn 20 năm PTBV của thế giới (từ 1992 đến nay) còn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân. Kinh tế thế giới vẫn là kinh tế “nâu”. Vì vậy, hiện nay, trong bối cảnh BĐKH/biến đổi toàn cầu, xu hướng PTBV đi theo định hướng là xây dựng một xã hội cácbon thấp, một xã hội tái tạo tài nguyên và một xã hội hài hòa với thiên nhiên và tổng hòa lại là Kinh tế xanh/Tăng trưởng xanh – con đường PTBV trong bối cảnh BĐKH. Nói cách khác là đảm bảo sự cân bằng sinh thái. Theo đó, về nguyên tắc phát triển KT phải chậm lại, phát triển XH và đặc biệt là môi trường phải tăng lên. Khẩu hiệu của chúng ta là: “Phát triển nhanh nhưng bền vững”, có lẽ nên xem lại ? ít ra về cách nói…cho phù hợp với hội nhập quốc tế (Trung Quốc dùng chữ Hài hòa, Hàn Quốc chỉ PTBV khí đã phát triển tốt về kinh tế…).
iii) Cách tiếp cận trong quản lý tổng hợp tài nguyên bảo vệ môi trường , ứng phó với BĐKH
Cách tiếp cận hệ thống liên ngành, liên vùng – tiếp cận dựa trên hệ sinh thái rất phổ biến trên thế giới hiện nay, nhưng mới bắt đầu ở Việt nam, nhất là trong hoạch định chính sách, cần được nhấn mạnh và cấn được thể hiện ngay trong VK.
iv) Vấn đề thực tế hóa chính sách – đây là vấn đề quan trọng nhất tôi muốn góp ý
Văn kiện rất hay, nhưng bằng cách nào để đường lối/chính sách đi vào cuộc sống một cách hiệu quả. Đây là vấn đề mấu chốt, đã kéo dài nhiều năm nay và đã cản trở chúng ta phát triển chưa xứng tầm với tiềm năng của đất nước. Đây là vấn đề phức tạp, liên quan tới tính hệ thống để giải quyết vấn đề, và sau đây tôi xin được góp một vài ý kiến nhỏ mang tính nguyên tắc từ góc nhìn của một người là khoa học.
b. Nhóm ý kiến chung về tính hệ thống để giải quyết vấn đề
- Trước hết phải nói rằng, chúng ta đã có những cố gắng và thành tích tuyệt vời trong quá trình đổi mới, đã cứu đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng nguy hiểm vào cuối những năm 80’. Nhưng cuộc Đổi mới đó trong giai đoạn hiện nay đã hết ý nhĩa. Chúng ta cần một sự mới mới, thực sự, mang tính đột phá, quyết định trong bối cảnh mới để có thể đi cùng thời đại. Tôi mong đợi sự đột phá như vậy trong phát triển đất nước. Nhưng chưa thấy rõ được trong Dự thảo Văn bản Đại hội lần này.
Xin được góp một số ý kiến cụ thể cần được thể hiện rõ hơn trong VK như sau:
i) Thực sự thay đổi tư duy, một tư duy hệ thống, hiện đại, sáng tạo và dài hạn trong hệ thống lãnh đạo đất nước. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
ii) Xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự, tam quyền phân lập, lấy dân làm gốc, có năng lực, trách nhiệm điều hành/giải trình và minh bạch. Sớm nhất khắc phục tình trạng một nhà nước bị “thương mại hóa, phân mảnh” và kém hiệu quả như hiện nay (MPI và WB, 2015). (Ví dụ nhãn tiền và gần nhất là: sự luẩn quẩn và phải nói là điên khùng của cải cách giáo dục hiện nay và tình trạng vô trách nhiệm và xuống cấp về đạo đức trong xây dựng hệ thống nước sông Đà – HN).
iii) Cần sớm nhất định rõ khái niệm “định hướng XHCN” trong nền kinh tế và xây dựng một cơ chế thị trường đầy đủ, minh bạch cho mọi lĩnh vực phát triển, kể cả khoa học và sáng tạo. Nhiều cơ chế và chính sách của chúng ta hiện nay thiếu cơ sở khó học và thực tiễn, kém hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả thực thi, tạo ra nhiều lỗ hổng, tạo ra cơ chế xin cho dễ bị lợi dụng và tham nhũng. Theo đó, gây nhiều lãng phí và không huy động được sức mạnh của toàn dân tộc.
iv) Tập trung vào xây dựng CON NGƯỜI (đặc biệt là người lãnh đạo), ưu tiên phát triển 2 lĩnh vực quan trọng nhất – động lực của mọi động lực phát triển là khoa học-sáng tạo và Giáo dục (nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao).
Xin trân trọng cám ơn!