Khả năng ứng phó sự cố tràn dầu của các địa phương ven biển Việt Nam hiện nay còn yếu và thường xuyên bị động
VACNE, 20/1) Đây là nhận xét của chuyên gia Hội BVTN&MT Việt Nam đã theo dõi về lĩnh vực này suốt 20 năm qua và cho biết trung bình mỗi năm ở nước ta có khoảng 10 vụ tràn dầu lớn được ghi nhận, riêng năm 2012 có 12 vụ, gây ô nhiễm trên diện rộng, ảnh hưởng lớn đến môi trường vùng cửa sông, ven biển.
![](/Images/image/2017_1/6-LamSachDuongBo.jpg)
Làm sạch đường bờ
Theo ông Phạm Văn Sơn, Giám đốc Công ty SOS môi trường – một trong những đơn vị tiên tiến hàng đầu trong hoạt động ứng phó với sự cố tràn dầu trong thời gian gần đây cho biết: Với tốc độ dòng chảy trung bình 1 mét/giây, nếu không có lực lượng ứng phó đến kịp thời, thì chỉ sau 1 giờ xảy ra sự cố, vệt dầu tràn đã lan xa trên mặt biển tới 3,6km. Không chỉ lan xa, mà dầu còn loang rộng trên biển. Hiệu quả ứng phó tỷ lệ nghịch với thời gian lực lượng ứng phó có mặt tại hiện trường. Dù lực lượng và trang bị ứng phó hiện đại đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu sau một vài giờ đồng hồ mới có mặt tại hiện trường thì dầu đã lan loang quá xa và rộng, chẳng còn lại gì để ứng phó khẩn cấp. Nếu để dầu tràn theo sóng nước xâm nhập vào khu vực nuôi trồng thủy sản, bãi tắm và các khu vực nhạy cảm khác sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng. Lúc đó chỉ còn lại hoạt động khắc phục hậu quả và việc khắc phục hậu quả cũng chỉ giảm thiểu được phần nào thiệt hại to lớn do sự cố tràn dầu, mà lẽ ra địa phương có thể cứu vãn được, nếu biết chủ động ứng phó kịp thời. Và thực tế trong vòng 20 năm trở lại đây cho thấy: tỷ lệ thu gom thành công lượng dầu tràn thoát ra môi trường ở các vùng ven biển, cửa sông của Việt Nam là rất thấp.
Dù hiện nay, hầu hết các tỉnh thành phố ven biển đã xây dựng xong “Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu” và đã được Ủy ban quốc gia ứng phó sự cố thiên tai và tìm kiếm cứu nạn phê duyệt, nhưng phần lớn các địa phương đều chưa đầu tư nguồn lực thích đáng cho “kế hoạch” này. Bởi trong kế hoạch thường chỉ thấy: sơ đồ tổ chức, thông báo, báo động, phối hợp các lực lượng… nhưng việc đầu tư trang thiết bị như thế nào, bố trí ở đâu, giao cho lực lượng nào sử dụng và quản lý… thì hầu như chưa có. Vì thế, ở những địa phương khi xảy ra sự cố tràn dầu thật, thường lúng túng, huy động các nguồn lực một cách thụ động. Ngoại trừ tại một số thành phố như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Hồ Chí Minh, các địa phương khác hầu như chưa quan tâm đến đầu tư nguồn lực (con người, cơ sở vật chất, trang thiết bị) tại cơ sở. Nếu huy động được nguồn lực cách xa nơi xảy ra sự cố, thì sẽ mất nhiều thời gian di chuyển và không phát huy hiệu quả trong ứng phó với sự cố tràn dầu
![](/Images/image/2017_1/5-ThuGomRacThaiNhiem%20Dau.jpg)
Thu gom rác thải nhiễm dầu
Việc khắc phục hậu quả sự cố dầu tràn vào đường bờ (không rõ nguyên nhân) tại các địa phương tại các tỉnh ven biển miền Trung và miền Nam trong những năm vừa qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Chính quyền địa phương chỉ biết huy động lực lượng thu gom dầu vón cục trên cá, còn một lượng dầu ở dạng lỏng ngấm xuống đất cát, đặc biệt là dầu bị khuyếch tán chìm trong nước và trôi dạt vào các khu vực nuôi trồng thủy sản thì bị “bỏ quên” nên đã gây thiệt hại to lớn cho người dân, cũng như kinh tế của địa phương.
Để nâng cao năng lực ứng phó sự cố môi trường nói chung và sự cố tràn dầu nói riêng, các địa phương cần xây dựng kế hoạch, triển khai những hoạt động thiết thực.
Việc đầu tiên cần làm là phải tổ chức đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, lấy thực hành và rèn luyện kỹ năng làm trọng yếu. Bởi nhiều thành viên trong “Hội đồng thẩm định kế hoạch” trước đây thường chưa được trang bị những kiến thức và cũng không có thực tế ứng phó sự cố nên không thể tránh khỏi những hạn chế và bất cập ngay từ trong “kế hoạch”.
Hơn nữa, việc xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu, sự cố hóa chất thường vượt quá khả năng tự làm của cơ sở. Một số đơn vị cơ sở thuê dịch vụ của đơn vị tư vấn, nhưng chính các đơn vị tư vấn lại chỉ có các chuyên gia môi trường (xử lý nước thải, quan trắc, phân tích mẫu…). Họ chưa được đào tạo kiến thức chuyên sâu về ứng phó sự cố tràn dầu, nên các văn bản Kế hoạch của cơ sở thường thiếu tính khả thi. Nguồn nhân lực ứng phó sự cố tràn dầu của cơ sở không chỉ thiếu, mà còn yếu về chuyên môn, mặc dù đã được đào tạo. Thực tế cho thấy: do chưa có kĩ năng và kinh nghiệm kiểm soát và ứng phó sự cố tràn dầu, nên cán bộ quản lý an toàn môi trường của một số doanh nghiệp, nhà máy, khu công nghiệp... đã đưa ra quyết định sai, làm cho sự cố diễn biến xấu hơn gây hậu quả nghiêm trọng, biến sự cố thành thảm họa.
Vì thế, từ các thành viên Hội đồng thẩm định kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu/sự cố hóa chất, các cán bộ nhân viên quản lý an toàn môi trường các khu công nghiệp, nhà máy, dự án... liên quan đến hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển, kinh doanh, lưu chứa dầu/hóa chất, đến các thành viên đội ứng phó sự cố tràn dầu/sự cố hóa chất cấp cơ sở ... đều phải được đào tạo, thực hành kỹ năng về lĩnh vực này.
Trong trường hợp các địa phương quan tâm, Công ty SOS Môi trường của Hội BVTN&MT Việt Nam sẵn sàng tư vấn các bước hành động cụ thể để triển khai Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu cấp tỉnh một cách hiệu quả, ít tốn kém nhất. ./.