Thành phố chiều nay đổ mưa. Mưa ào ào, kèm theo tiếng giông vọng về xa xôi. Nằm trong căn gác trọ, nỗi nhớ quê lại càng thêm da diết. Hồi còn ở quê, những chiều mưa dài lê thê như thế này má hay đổ kẹo đậu. Má bưng cả mẹt bánh đặt lên bộ phản gỗ cả nhà tụm lại, nhai giòn giã rồi lại hít hà, xuýt xoa khi nhâm nhi từng cốc nước lá vối má đun.
Ở quê tôi, cây vối được trồng ở sau nhà, bờ ao hay ven sông. Từ tấm bé cây đã quen thuộc với tuổi thơ. Mùa hè nắng như đổ lửa, dưới bóng mát của cây vối, tụi con nít chúng tôi tụ tập chơi ô ăn quan, trốn tìm… rồi đến lúc đói bụng liền trèo lên hái những quả vối chín. Quả vối ăn ngòn ngọt, hơi chan chát khiến lũ trẻ quê nghèo chúng tôi tha hồ giành nhau đầy thích thú.
Riêng nước lá vối, từ hồi biết bò, đi chập chững đứa trẻ nào trong làng cũng được ba má cho uống. Má tôi, người đàn bà chân lấm tay bùn, ngoài thời gian chăm lo cho đám ngô, khoai, đậu xen kẽ với lúa, mỗi ngày sau buổi chợ, bà đều tranh thủ đi hái lá vối.
Tôi đã quen với hình ảnh má hái lá, rửa, phơi rồi lụi cụi dưới bếp thổi lửa đun nồi nước vối. Theo kinh nghiệm lá vối khô uống thơm đậm, ngon hơn lá tươi nhiều. Nhưng trước khi phơi khô, má lại tỉ mỉ chọn lấy lá vối và các cuống con, bỏ các cuống già. Sau đó lót một lớp lá chuối khô hoặc ít rơm vào đáy chiếc chum đặt góc nhà, cho lá vào chum, tiếp tục phủ kín mặt trên lớp lá vối bằng rơm, sau đó úp sấp chum xuống mặt đất, để vào nơi thoáng mát. Vài ngày sau, khi lá vừa chín tới, chín đều (lá phải ngả màu vàng đều nhau) lấy ra phơi thật khô rồi cất đi để dùng dần. Má thường cho lá vối vào một bao tải cất lên gác bếp vì ở bếp khô ráo luôn có khói và bồ hóng nên các vi khuẩn bị hạn chế phát triển, lá vối không bị ẩm mốc.
Ngày nào má cũng nấu một nồi nước lá vối, mùa đông, má thường ủ trên bếp trấu, mùa hè rót vào ấm tích để dành uống dần, cứ đi ra một cốc, đi vào một cốc, hết ngày là cũng hết nồi nước vối. Má bảo, thứ nước vối này khi đun sôi uống vào, trẻ con đứa nào hay đau bụng sẽ hết dần, da dẻ trở nên săn chắc, hồng hào. Chẳng biết má nói thế có đúng không, nhưng kỳ thực, suốt những năm tháng tuổi thơ dù mưa nắng bất thường, dù thiếu thốn đủ bề ít khi tôi đau ốm lặt vặt.
Nấu nước vối tưởng chừng như rất đơn giản nhưng để có một bát nước ngon đòi hỏi sự tỉ mỉ của người nấu. Trước tiên là đun sôi nước sau đó cho lá vào ấm, cho lá ngập với mặt nước rồi tiếp tục đun sôi. Lửa nấu nước vối đỏ đều, không to quá mà cũng không nhỏ quá. Củi nấu nước tốt nhất là thứ củi không làm phai mất vị của nước như củi bạch đàn, củi tre... Khi nồi nước đã sôi, hạ lửa, ít phút sẽ có được ấm nước vừa chát, vừa thơm. Đặc biệt, khi đun tuyệt đối không được mở vung nồi vì hơi nước sẽ xông hết ra ngoài, vị nước không đậm, mùi lá không thơm nồng.
Nước vối ngon là khi múc ra bát, đặc sóng sánh, màu đỏ nâu trông thật bắt mắt. Từ nước cốt đầu tiên, má cứ châm thêm nước sôi cho loãng dần. Uống từng ngụm nước nóng hổi, vị chan chát chợt lan trên đầu lưỡi rồi dần dần ngấm sâu vào lòng người khi thưởng thức.
Không biết từ bao giờ tôi lại ghiền thứ nước chan chát nhẹ nhàng ấy.Từ ngày xa quê, xa má đi lập nghiệp, giữa chốn thị thành phồn hoa, ký ức tuổi thơ nghèo khó thi thoảng lại nhói về. Và chiều nay, cớ sao mưa cứ dai dẳng để lòng lại đong đầy nỗi nhớ bát nước lá vối dân dã nơi quê nhà.