(VACNE) - BBT nhận được bài viết CÂY ĐA BỒ ĐỀ của TSKH. Trần Công Khánh. Xin cảm ơn Tiến sĩ và giới thiệu cùng bạn đọc.
Cây Đa bồ đề (tiếng Anh là Sacred fig), tên khoa học là Ficus religiosa L., họ Dâu tằm (Moraceae). Gọi là Đa bồ đề vì cây này cùng họ, cùng chi Ficus với các cây Đa ở nước ta, như Đa búp đỏ, Đa lông, Đa tía, vv. Ở Việt Nam, cây Đa bồ đề bị gọi là “Bồ đề”, một cây linh thiêng trong Phật giáo, Ấn giáo và Ki-na giáo (một tôn giáo ở Ấn Độ). Từ “Bồ đề” được phiên âm từ tiếng Phạn là “Bodhi”, có nghĩa là sự ‘tỉnh thức’, sự thông suốt đạo lý. Theo các điển tích về Phật giáo, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề, Ngài đã từng bước giác ngộ được các giáo lý của Phật giáo.
Ngày 16.3.2013, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) đã công nhận cây Đa bồ đề hơn 200 tuổi ở làng Quỳnh Đô (xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội) là cây Di Sản Việt Nam.

Lý do không nên gọi cây Đa bồ đề là “Bồ đề”, vì theo các sách về Cây thuốc ở Việt Nam và Dược điển Việt Nam (Xb. lần thứ 5, 2017) ở nước ta có một cây thuốc tên là Cánh Kiến trắng hay Bồ đề, tên khoa học là Styrax tonkinensis (Pierre) Craib. ex Hardw., họ Bồ đề (Styracaceae). Đây là cây gỗ, mọc hoang và cũng được trồng ở một số tỉnh miền núi và trung du phía Bắc nước ta. Cụm hoa là chùm dài ở kẽ lá và đầu cành, mang nhiều hoa nhỏ. Hoa có 5 cánh màu trắng, mùi thơm nhẹ. Nhựa thơm lấy từ thân cây, để khô gọi là An tức hương, để làm thuốc.
Hình 1 và 2: Cây Bồ đề làm thuốc và Hoa Bồ đề (nguồn: Internet)
Cây “Đa bồ đề” và cây “Bồ đề” làm thuốc là hai loài thực vật hoàn toàn khác nhau về vị trí phân loại, hình dạng, cấu tạo cũng như công dụng. Vì vậy, cần phân biệt, tránh nhầm lẫn.
Cây Đa bồ đề: Cây gỗ lớn, thân nhẵn, cao 20(-30) m, có nhựa mủ trắng đục, tán lá rộng, sống lâu năm (ở Sri Lanka có cây Đa bồ đề trên 2000 năm tuổi). Lá đơn, hình tim hay hình trứng, mọc cách, xếp xoắn ốc; phiến lá mỏng, kích thước 12-18 x 7-10cm; gốc lá cụt hay hơi lõm, chóp lá thu hẹp đột ngột tạo thành mũi nhọn dài 2-3cm hay hơn, cuống lá mảnh, dài 5-8cm. Cụm hoa có cấu tạo đặc biệt, trông như quả Sung nhỏ, không cuống, gần hình cầu, đường kính 7-8mm, thường mọc thành từng đôi trên các cành có lá. Trong cụm hoa này rỗng ruột, có lỗ mở nhỏ ở đỉnh, hoa đực xếp quanh miệng lỗ, hoa cái gần như không cuống nằm phía dưới. Cụm hoa này to dần thành quả, màu xanh khi còn non, màu hồng hoặc đỏ đậm khi chín. Mùa hoa, quả: tháng 4-6.
Hình 3: Cây Đa bồ đề (nguồn: T.C. Khánh)
Nơi sống: Cây Đa bồ đề có nguồn gốc ở Nepal, Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, tây nam Trung Quốc,… Ở Việt Nam, cây này thường được trồng trong khuân viên các nơi linh thiêng như đền, chùa, từ đồng bằng đến miền núi.
Hình 4: Cây Đa bồ đề 200 tuổi ở Quỳnh Đô, huyện Thanh Trì, Hà Nội (nguồn: Internet)
Bộ phận dùng: Vỏ cây, lá và quả
Thành phần hoá học: Theo tài liệu của GS. Đ.T. Lợi, cây Đa bồ đề chứa 85% chất nhựa mủ và 12% chất cao su. Theo S.B. Chandrasekar và cs. (Ấn Độ), vỏ thân Đa bồ đề có chất phenol, tannin, steroid, alkaloid, flavonoid, β-sitosteryl-D-glucosid, vitamin K, n-octacosanol, methyl oleanolat, lanosterol, stigmasterol và lupen-3-one. Quả của loài này có chứa các flavonol là kaempferol, quercetin và myricetin.
Công dụng: Theo tài liệu, cây Đa bồ đề được sử dụng rộng rãi trong Y học cổ truyền ở nhiều nước Châu Á, để điều trị khoảng 50 loại bệnh về nội tiết, tiêu hóa, hô hấp, điều hòa miễn dịch, chống oxy hóa, hạ đường huyết, trị giun sán và vết thương. Dịch chiết từ vỏ thân có tác dụng kháng khuẩn Staphylococcus, Escherichia coli, kháng nấm, diệt được Entamoeba histolytica (gây bệnh kiết lỵ), và giun đũa nhỏ Ascarigia galli.
Các phương thức sử dụng trong dân gian:
Tại Ấn Độ và Pakistan, các bộ phận của cây Đa bồ đề được dùng khá phổ biến để điều trị một số bệnh thông thường:
- Lá được dùng để trị tiêu chảy, kiết lỵ, táo bón. Nước sắc của lá chữa đau răng. Lá khô tán mịn, trộn với mỡ để đắp trị mụn nhọt, sưng hạch như quai bị.
- Vỏ thân có tính kháng khuẩn, dùng trị bệnh tiểu đường, tiêu chảy, kiết lỵ, bệnh trĩ, chống viêm, ghẻ, nôn mửa. Nấu nước rửa để chữa lở loét và bệnh ngoài da. Nước sắc vỏ thân, thêm với mật ong được dùng trị bệnh lậu mủ. Vỏ thân đốt thành than, hòa với nước, dùng trị nấc, buồn nôn và ói mửa. Vỏ thân nấu với sữa là thuốc kích dục.
- Vỏ rễ phơi khô, tán mịn, trộn với mỡ, dùng làm thuốc trị bệnh ngoài da như eczema, bệnh hủi (do vi khuẩn Mycobacterium leprae).
- Quả kích thích tiêu hoá. Quả khô tán thành bột trị hen suyễn.
- Nhựa mủ dùng trị các chứng viêm, xuất huyết, mụn cóc.
Ở Trung Quốc, vỏ thân cây Đa bồ đề được dùng làm thuốc súc miệng chữa đau răng, làm chắc răng. Hoa được đun sôi, lấy nước làm thuốc giải nhiệt cho người bị sốt cao.
Có tài liệu cho biết: Vỏ cây này có thể dùng thay vỏ cây Chay để ăn trầu. Quả dùng giải nhiệt, giúp tiêu hoá. Lá và cành non gây tẩy, nhưng dịch lá tươi lại chữa tiêu chảy và cả trường hợp nghi là dịch tả.
Lời kết:
Các dẫn liệu trên đây (để tham khảo) cho thấy cây Đa bồ đề thực sự là một cây thuốc có nhiều công dụng. Một cây dễ trồng và dễ phát triển thành nguồn nguyên liệu làm thuốc. Các nhà khoa học nên kiểm tra lại để cung cấp bằng chứng khoa học thuyết phục cho việc áp dụng trong điều trị bệnh ở Việt Nam.
TSKH. Trần Công Khánh