|
Xăng, dầu sẽ là một trong những nhóm đối tượng phải nộp thuế môi trường
|
|
Thuế môi trường là một trong những biện pháp kinh tế được phối hợp sử dụng trong các chính sách môi trường của một quốc gia, nhằm thay đổi hành vi của người sản xuất và người tiêu dùng trong việc giảm các chất phát thải và sử dụng các sản phẩm mà các chất thải và sản phẩm này có tiềm năng hoặc gây tác động xấu đến môi trường và sức khỏe. Sáng 29/9/2010 tại Hà Nội, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam tổ chức Hội thảo phản biện xã hội về Dự thảo Luật Thuế Môi trường.
|
Theo Dự thảo mới nhất, đối tượng chịu thuế môi trường tại Việt Nam bao gồm các nhóm chính: Xăng, dầu, mỡ; Than; Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC); Túi nilon thuộc diện chịu thuế; Thuốc diệt cỏ, trừ mối, bảo quản lâm sản, khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng.
Theo PGS.TS Nguyễn Đình Hòe, Trưởng ban Phản biện Xã hội (Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam), Dự thảo Luật Thuế Bảo vệ Môi trường với nội dung hiện có, tuy đã đáp được nâng cấp nhiều, nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt kỳ vọng đem lại tác động tích cực cho công tác bảo vệ môi trường, chưa góp phần thay đổi hành vi sản xuất của doanh nghiệp và hành vi của người dân theo hướng tích cực thông qua nộp thuế.
Theo đó, cách tính thuế và xác định mặt hàng chịu thuế còn thiếu cơ sở khoa học và tính thuyết phục. Cần phải đánh giá mức độ ô nhiễm và suy thoái môi trường của sản phẩm làm cơ sở cho việc tính thuế. Tên “Luật Thuế Bảo vệ Môi trường” không phù hợp với Quy định của Luật Bảo vệ Môi trường.
Việc thu thuế theo Dự thảo không đảm bảo đạt được các mục tiêu đã định, thậm chí gây khó khăn cho sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, không khuyến khích được việc áp dụng sản xuất sạch hơn và các công nghệ thân thiện môi trường, không khuyến khích, thay đổi hành vi theo hướng thân thiện môi trường. Dự thảo còn nhiều bất cập về nội dung, cấu trúc và thuật ngữ
PGS.TS Nguyễn Đình Hòe cũng cho biết, Dự thảo cần được tiếp tục soạn thảo lại trên cơ sở đảm bảo tính phù hợp pháp luật, đáp ứng cơ sở khoa hoạc, chuẩn xác cao về cấu trúc, ngôn ngữ, thuật ngữ và tính ổn định tương đối lâu dài của Luật trước khi đệ trình Quốc hội phê duyệt.
Dưới góc độ là giảng viên môi trường Đại học Huế, ThS. Lê Thị Phúc cho rằng, để Luật Thuế Môi trường thực sự là công cụ hữu hiệu bảo vệ môi trường chứ không chỉ là văn bản mang tính hình thức thì phải xác định đúng mục tiêu, đảm bảo tính công bằng xã hội đối với người nộp thuế và tính thống nhất của Luật này với các văn bản khác.
Xuân Hợp