Tham dự Hội thảo có  khoảng 200 đại biểu đến từ các Cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường,  các chuyên gia trong và ngoài nước, các hội viên của VACNE.
Hội  thảo này là một trong những hoạt động nằm trong kế hoạch của Chương  trình “Hỗ trợ phát triển chính thức cho các nước thuộc diện thu nhập  trung bình và thấp để xử lý ô nhiễm và giảm thiểu tác động của ô nhiễm,  đặc biệt là các tác động đến đa dạng sinh học”. 
Chương trình do Bộ Môi trường, Thực phẩm và  Nông thôn Vương quốc Anh và Ủy ban Bảo tồn Thiên nhiên chung đồng thực  hiện nhằm mục tiêu chính là đảo ngược tình trạng mất đa dạng sinh học  (ĐDSH), xây dựng khả năng phục hồi hệ sinh thái trong bối cảnh biến đổi  khí hậu toàn cầu và cải thiện sức khỏe con người.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Thượng Hiền phát biểu tại Hội thảo. Ảnh chụp màn hình
Thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường
Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn  Thượng Hiền nhấn mạnh, thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức, khủng  hoảng đối với môi trường, ĐDSH và biến đổi khí hậu. Trong một thời gian  dài, việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho các hoạt động  phát triển đã làm cho môi trường bị ô nhiễm và các hệ sinh thái trên  toàn thế giới bị suy thoái. 
Theo Báo cáo đánh giá về ĐDSH và dịch vụ hệ  sinh thái toàn cầu của Diễn đàn liên chính phủ về ĐDSH và dịch vụ hệ  sinh thái được xây dựng năm 2019, ĐDSH có tầm quan trọng với con người,  cung cấp 18 dịch vụ cơ bản trên toàn cầu để duy trì các hoạt động sống  và phát triển của con người. Tuy nhiên, 14 trong 18 đóng góp này của  thiên nhiên đang có xu hướng suy giảm trên toàn cầu. Bên cạnh đó, tỷ lệ  độ che phủ rừng trên toàn cầu đã giảm từ 31,6% xuống còn 30,6% trong  giai đoạn 1990-2015. Hệ sinh thái rạn san hô được đánh giá là có sự suy  giảm về chỉ số sống sót cao nhất, hiện đã giảm 35% trong thời gian từ  1970 - 2015 và 25% số loài được nghiên cứu bị đe dọa tuyệt chủng.  
Ông Nguyễn Thượng Hiền cho biết, ngày 6/3/2019,  tại Nghị quyết số A/RES/73/284, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ra quyết  định tuyên bố Thập kỷ 2021 - 2030 là Thập kỷ Liên hợp quốc về Phục hồi  hệ sinh thái. Thập kỷ về Phục hồi hệ sinh thái được chính thức giới  thiệu và khởi động vào Ngày Môi trường thế giới, ngày 5/6/2021 nhằm kêu  gọi các quốc gia hành động khẩn trương, quyết liệt, trên tinh thần cùng  chung tay nỗ lực xây dựng và thực hiện các chính sách, kế hoạch và sáng  kiến ngăn chặn sự suy thoái hệ sinh thái vì tương lai của toàn thể nhân  loại.
Việt Nam được công nhận là nước có tính ĐDSH  cao trên thế giới, ĐDSH đã góp phần to lớn trong đảm bảo an ninh lương  thực, sinh kế cho người dân; tạo nên các cảnh quan thiên nhiên; là cội  nguồn của nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp của người dân Việt Nam. Công  tác bảo tồn ĐDSH thời gian qua đã có nhiều kết quả đáng khích lệ: số  lượng và diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên tăng lên; công tác cứu  hộ, tái thả vào tự nhiên một số loài nguy cấp được thực hiện; nhiều khu  bảo tồn được công nhận có tầm quan trọng quốc tế, cụ thể là đến nay,  Việt Nam đã có 9 Khu Ramsar, 11 khu Dự trữ sinh quyển thế giới, 10 Vườn  di sản ASEAN. Tuy nhiên, những nỗ lực này vẫn chưa đủ để đảo ngược tình  trạng mất mát ĐDSH đang diễn ra hiện nay.
Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn  Thượng Hiền cho biết, đối với Việt Nam, phát triển bền vững, giảm thiểu  tổn thất về môi trường là quan điểm xuyên suốt trong quá trình hoạch  định chính sách. Việt Nam đang rất nỗ lực chung tay cùng với thế giới  thực hiện các quá trình chuyển dịch hướng tới mô hình kinh tế xanh, kinh  tế tuần hoàn, kiên quyết không đánh đổi môi trường để phát triển kinh  tế, làm ảnh hưởng tới phát triển bền vững, luôn đặt ứng phó với biển đổi  khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ĐDSH ở vị trí quan  trọng trong các nghị quyết và định hướng phát triển.
Luật Bảo vệ Môi trường đã được Quốc hội thông  qua năm 2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều  của Luật Bảo vệ môi trường đã được Chính phủ ban hành ngày 10/1/2022 có  những quy định cụ thể giúp kiểm soát ô nhiễm và bảo tồn ĐDSH tốt hơn.  Mới đây nhất, Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030 và  tầm nhìn đến năm 2050 cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại  Quyết định số 149/QĐ-TTG vào ngày 28/1/2022 cũng đã xác định rõ ưu tiên  của Việt Nam về công tác bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH trong thời gian tới  đó là gia tăng diện tích các hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ; phục  hồi và bảo đảm tính toàn vẹn, tính kết nối của hệ sinh thái; ĐDSH được  sử dụng bền vững góp phần phát triển nền kinh tế xanh, chủ động thích  ứng với biến đổi khí hậu.
Tôi đề nghị các Sở Tài nguyên và  Môi trường cũng như các cơ quan có liên quan ở địa phương tích cực áp  dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên, bao gồm tiếp cận hệ sinh thái,  cân nhắc lồng ghép nội dung bảo tồn ĐDSH trong phát triển các ngành kinh  tế, thực hiện nghiêm túc đánh giá ĐDSH trong đánh giá tác động môi  trường nhằm giải quyết đồng thời mất ĐDSH, ô nhiễm môi trường và biến  đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Thượng Hiền

Ông Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam phát biểu tại Hội thảo. Ảnh chụp màn hình
Ô nhiễm môi trường làm suy giảm ĐDSH và sức khỏe con người
Tại Hội thảo, các đại biểu đã nghe nhiều diễn  giả trình bày các bài tham luận làm rõ chủ đề của Hội thảo, như: Giảm  thiểu ô nhiễm thông qua quan hệ đối tác - Kết quả phân tích toàn cầu;  giảm thiểu ô nhiễm thông qua quan hệ đối tác - Báo cáo phân tích ô nhiễm  quốc gia thí điểm Việt Nam; đánh giá tác hại của ô nhiễm môi trường  không khí đối với ĐDSH, sức khỏe con người và đề xuất các giải pháp giảm  thiểu tác hại trong giai đoạn 2022-2025; đánh giá tác hại của ô nhiễm  nguồn nước đối với ĐDSH, sức khỏe con người và đề xuất các giải pháp  giảm thiểu tác hại trong giai đoạn 2022-2025; tác động của ô nhiễm không  khí đến sức khỏe người dân tại thành phố Hồ Chí Minh và xây dựng giải  pháp bảo vệ sức khỏe người dân…
Theo nghiên cứu của GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng, Hội  Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam và TS. KTS Phạm Thị Hải Hà,  Đại học Xây dựng Hà Nội, ô nhiễm không khí gây ra các tác hại nặng nề  đối với các hệ sinh vật (động vật và thực vật). Cụ thể, các chất ô nhiễm  đi vào khí quản của các loài động vật gây ra tắc nghẽn hô hấp, làm suy  giảm hệ thống miễn dịch, cũng như cản trở quá trình trao đổi chất. Các  loài thực vật bị ô nhiễm bụi bám vào làm giảm quá trình quang hợp, khi  bị các khí ô nhiễm tác dụng, nhất là bị khí ô nhiễm HF và SO2 tác dụng  gây ra các bệnh vàng lá, rụng lá hàng loạt. 
Ngoài ra, các chất khí ô nhiễm SO2, NOx dưới  tác dụng của bức xạ mặt trời và hơi nước sẽ tạo ra mưa axit và lắng đọng  khô axit. Lắng đọng axit có khả năng giết chết các loài vi sinh vật,  sinh vật trong môi trường đất và môi trường nước, làm thay đổi chất  lượng nguồn nước, phá hoại rừng và mùa màng. Mưa axit nặng có thể làm  chết hàng loạt động vật và thực vật. Ô nhiễm khí CO2, khí CH4 (khí “nhà  kính”) sẽ gây ra BĐKH, làm cho trái đất ngày càng nóng hơn và biến đổi  khí hậu dị thường, gây ra suy thoái tất cả các loài động vật và thực  vật.
Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường không khí cũng  ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sức khỏe con người. Theo số liệu của WHO,  ô nhiễm không khí xung quanh ở cả thành phố và nông thôn ước tính gây  ra 4,2 triệu ca tử vong sớm trên toàn thế giới vào năm 2016; tỷ lệ tử  vong này là do tiếp xúc với bụi mịn có đường kính từ 2,5 µm trở xuống  (PM2.5), gây ra bệnh tim mạch và hô hấp, và các bệnh ung thư. Trong đó  những người sống ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình phải chịu  gánh nặng ô nhiễm không khí xung quanh chiếm đến 91% trong số 4,2 triệu  ca tử vong sớm này, và các nước chịu gánh nặng lớn nhất ở là Đông Nam Á  và các khu vực Tây Thái Bình Dương.
Cùng với ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước  cũng tác động nghiêm trọng đến ĐDSH và sức khỏe con người. Theo GS.TS  Trần Hiếu Nhuệ, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, khi ô  nhiễm nguồn nước xảy ra, sự gia tăng của các chất dinh dưỡng mới có  trong nguồn nước sẽ kích thích sự phát triển của cây và tảo, làm giảm  đáng kể oxy trong nguồn nước. Sự thiếu oxy này sẽ làm chết các loài thực  vật và động vật có trong nguồn nước và tạo ra vùng chết, nơi mà các  nguồn nước không có sự sống của sinh vật. Ngoài ra, hóa chất và kim loại  nặng từ nước thải công nghiệp, đô thị cũng làm ô nhiễm nguồn nước, gây  độc hại đối với sinh vật có trong nguồn nước, làm giảm khả năng sinh sản  cũng như tuổi thọ của sinh vật.
Các số liệu thống kê cũng cho thấy,  mỗi năm, có đến 9.000 người chết vì ô nhiễm nguồn nước, 100.000 trường  hợp ung thư do sử dụng nguồn nước ô nhiễm. Khảo sát 37 xã mang tên “làng  ung thư” đã có 1.136 người chết vì các bệnh ung thư. Ngoài ra, còn có  380 người ở các xã lân cận cũng chết bởi ung thư.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Nhằm giảm thiểu tác hại của ô nhiễm môi trường  không khí đối với ĐDSH, sức khỏe con người, các chuyên gia tại Hội thảo  cho rằng, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách và các quy định  pháp luật để quản lý chất lượng môi trường không khí, trước hết là xây  dựng và ban hành Luật Không khí sạch, hoàn thiện và thực thi triệt để  các chính sách pháp luật, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các quy  định pháp luật về BVMT không khí. Đặc biệt là triển khai hiệu quả Chỉ  thị số 3/CT-TTg, ngày 18/1/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường  kiểm soát ô nhiễm không khí.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả làm việc của bộ  máy quản lý môi trường không khí ở Trung ương và các địa phương, như là  thành lập các phòng 169 quản lý môi trường không khí thuộc Chi cục BVMT  ở các tỉnh/thành, tăng cường lực lượng thanh tra, kiểm tra môi trường  không khí. Đồng thời, tiến hành định kỳ kiểm tra theo quy định của quy  chuẩn môi trường về khí thải đối với tất cả các phương tiện giao thông  cơ giới, cấm lưu hành đối với tất cả các xe không đáp ứng yêu cầu về  BVMT; khuyến khích hình thành các khu phố đi bộ, đi xe đạp; phát triển  các loại xe cơ giới chạy bằng khí gas, khí hóa lỏng và xe chạy điện.

Cần tăng cường kiểm soát, kiểm tra các nguồn thải công nghiệp, bảo đảm đạt quy chuẩn quốc gia
 
GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng và TS.KTS Phạm Thị Hải  Hà cho rằng, cần tăng cường kiểm soát, kiểm tra các nguồn thải công  nghiệp, bảo đảm đạt quy chuẩn quốc gia, áp dụng các biện pháp kỹ thuật  xử lý nguồn thải phát sinh từ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp ở  bên trong và xung quanh các khu, cụm công nghiệp. Tập trung kiểm soát,  kiểm tra và xử lý nghiêm các nguồn thải ô nhiễm bụi phát sinh từ các  hoạt động xây dựng mới và sửa chữa các công trình nhà cửa, hệ thống hạ  tầng kỹ thuật giao thông; phổ biến áp dụng các công nghệ xây dựng ít ô  nhiễm; tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải bụi phát  sinh từ vận chuyển nguyên vật liệu rời, đặc biệt là vận chuyển vật liệu  rời về ban đêm.
Bảo vệ và phát triển trồng rừng, phủ xanh các  vùng đất trống, đồi núi trọc, triệt để phòng ngừa cháy rừng, suy thoái  rừng, nâng tỷ lệ đất rừng lên 45% vào năm 2050. Phát triển mạnh mẽ phong  trào trồng cây xanh trên phạm vi toàn quốc, nhất là các hệ thống cây  xanh trong các đô thị và trên các mạng lưới giao thông vận tải. Vận động  nhân dân và áp dụng các chính sách ưu đãi để đạt được mục tiêu đến năm  2030 không còn bếp đun than ở các đô thị (nội thành và ngoại thành), áp  dụng các công nghệ xử lý rơm rạ hợp lý, chấm dứt việc đốt rơm rạ trong  mùa thu hoạch nông nghiệp. Ưu tiên đầu tư hoàn thiện hệ thống quan trắc  môi trường không khí, đặc biệt là hệ thống quan trắc không khí tự động  cố định ở các đô thị và các KCN.
Để giảm thiểu tác hại của ô nhiễm nguồn nước ở  Việt Nam, GS.TS. Trần Hiếu Nhuệ cho rằng, Nhà nước, chính quyền các cấp  cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng, tiếp  tục ban hành các chính sách, quy định hướng dấn thi hành Luật Bảo vệ  môi trường năm 2020. Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về bảo vệ  môi trường. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ môi  trường các cấp từ Trung ương đến các tỉnh, huyện, xã. Đồng thời, tăng  cường công tác kiểm tra đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ  trên địa bàn; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc đầu tư xây dựng các  trạm xử lý nước thải công nghiệp, sinh hoạt tập trung.