Vietnamese English
Về việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng

3/25/2015 8:14:00 AM

VACNE) - Trả lời Đất Việt về việc hoàn chỉnh Thông tư 20/2014 quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng, nhiều hội viên của VACNE đã nêu quan điểm của mình, đặc biệt là về các khía cạnh môi trường liên quan . VACNE xin đăng tải các phát biểu này.

1. GS. TSKH Phạm Ngọc Đăng, Phó chủ tịch VACNE.

PV: - Sau khi bị tạm hoãn, hiện Bộ KHCN đang tiếp tục lấy ý kiến DN để hoàn thiện dự thảo Thông tư 20/2014 quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng. Tuy nhiên, các quy định như thiết bị đã qua sử dụng nhập khẩu vào Việt Nam phải có tuổi đời chưa quá 10 năm, và chất lượng còn 80% so với máy mới… bị doanh nghiệp vừa và nhỏ phản ứng gay gắt. Ông bình luận thế nào trước thực trạng này? Có thể đánh giá thế nào về sự hợp lý và bất hợp lý của phản ứng trên?


GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng: - Theo tôi phản ứng của các doanh nghiệp này thể hiện xu thế chung từ trước tới nay họ quen với sự dễ dãi muốn làm gì cũng được.

Hơn nữa họ mới đang chỉ nhìn thấy cái trước mắt và cái lợi nhỏ là mua thiết bị rẻ và sản xuất hàng hóa vẫn đang được thị trường chấp nhận. Nhưng về mặt lâu dài càng thiết bị cũ thì năng suất, chất lượng sản phẩm thấp thì không thể cạnh tranh với công nghệ mới.

Cho nên tôi cho rằng các nhà sản xuất, doanh nghiệp nên nhìn xa hơn. Không nên nghĩ đến những lợi ích trước mắt mà phải nghĩ đến lợi ích lâu dài.

Về mặt sản xuất, thiết bị cũ tôi đảm bảo là khả năng phát sinh các loại chất thải sẽ nhiều hơn thiết bị mới, hiệu quả sử dụng năng lượng cũng thấp hơn. Khi đó gián tiếp sản sinh ra nước thải, khí thải do tiêu hao năng lượng nhiều. Chính vì thế tôi hoàn toàn ủng hộ dự thảo Thông tư 20 của Bộ KH&CN.

Từ khi bàn về Luật Bảo vệ môi trường 2005 chúng tôi đã rất quan tâm đến vấn đề này và mong muốn có một quy định nào đó để ngăn chặn. Nhưng trên thực tế doanh nghiệp luôn tìm các khe hở để đưa thiết bị cũ nhưng cố tìm cách tân trang lại.

Tôi từng đi kiểm tra các nhà máy nhìn thấy những chỗ tân trang vết cũ trên máy để qua mắt hải quan và đúng là những thiết bị này gây ô nhiễm môi trường rất lớn.

Vấn đề hiện nay đúng là phía cơ quan đưa ra quy định phải có những tiêu chí cụ thể để thẩm định, đánh giá thiết bị, công nghệ khiến doanh nghiệp tâm phục, khẩu phục để tránh tình trạng kẻ nói đi người nói lại.


 
Thông tư 20 từng bị dừng lại vào thời điểm Microsof chuyển nhà máy từ Trung Quốc về Việt Nam

PV: - Dễ thấy, nếu doanh nghiệp sử dụng máy móc, thiết bị cũ thì chất lượng sản phẩm khó cạnh tranh, giá thành sản xuất bị nâng cao… Điều này sẽ làm giảm thiểu hơn nữa sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội trong bối cảnh hội nhập đã cận kề. Đứng ở phía người quản lý, có nên dung hòa lợi ích trước mắt của doanh nghiệp mà tự đánh mất sức cạnh tranh của nền kinh tế hay không và vì sao?

GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng: - Tôi cho rằng các nhà quản lý phải dựa trên bình diện chung để đưa ra những quyết định sáng suốt.

Chúng ta đang cận kề với hội nhập thế giới. Ngay trong năm 2015 này, Việt Nam có thể ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng như FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu, FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA với Liên minh thuế quan Nga, Belarus, Kazachstan, Hiệp định Thương mại tự do với EFTA bao gồm các nước nhỏ nhưng giàu có gồm Thụy Sỹ, Na Uy, Lichtenstein và Iceland và quan trọng hơn cả là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và cuối năm 2015 là Cộng đồng Kinh tế ASEAN có hiệu lực.

Trong bối cảnh hội nhập này mà chúng ta lại tính chuyện chờ họ thải công nghệ ra rồi nhập về nước mình thì đúng là không thể nào chấp nhận được.

Vì vậy các nhà quản lý không nên chấp nhận lợi ích của doanh nghiệp. Điều này về lâu dài doanh nghiệp cũng thiệt hại mà nhà nước, cả nền kinh tế này thiệt hại theo. Cho nên làm thế nào Thông tư này sớm được ban hành và thực thi để dần nâng cấp công nghệ của Việt Nam lên.

PV: - Ở khía cạnh thu hút đầu tư, Thông tư 20 cũng vấp phải phản ứng từ các ông lớn. Thực tế, sau khi Thông tư bị tạm hoãn, Microsoft và LG đã thông báo chuyển nhà máy từ Trung Quốc về Việt Nam. Theo ông, thả lỏng hàng rào công nghệ để đổi lấy đầu tư có phải là một lựa chọn khôn ngoan hay không và vì sao? Kinh nghiệm của các nước có điều kiện tương tự Việt Nam về vấn đề này như thế nào?

GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng: -  Trước hết phải thấy rằng thu hút đầu tư là quan trọng, song không vì thế mà bằng mọi giá chấp nhận tất cả các điều kiện của doanh nghiệp.

Hơn nữa việc các nhà đầu tư muốn chuyển nhà máy, công nghệ về Việt Nam chúng ta cũng cần phải đặt câu hỏi vì sao lại có chuyện đó.

Phải chăng ở các nước họ đang đặt nhà máy trước kia, ngoài lý do về giá nhân công, liệu vấn đề phí môi trường có phải là nguyên nhân khiến các nhà máy này không đáp ứng nổi?

Tất cả những điều này đều phải được đặt lên bàn và cân nhắc. Còn nếu chúng ta lựa chọn đầu tư mà bỏ qua các điều kiện để thả lỏng các doanh nghiệp nước ngoài tự do thì hậu quả chúng ta sẽ gánh còn doanh nghiệp khi đã 'kiếm đủ' thì họ cao chạy xa bay mà không cần phải nghĩ đến môi trường ô nhiễm thế nào và khấu hao sản phẩm ra sao.

PV: - Các chuyên gia đã nhiều lần cảnh báo về viễn cảnh công nghệ cũ của Trung Quốc sẽ ồ ạt tuồn sang Việt Nam do hệ quả quá trình cải cách (giai đoạn đau đớn) của Trung Quốc. Nếu không lập hàng rào công nghệ, điều này có đồng nghĩa Việt Nam sẽ trở thành bãi rác công nghệ thứ cấp của Trung Quốc hay không? Nếu điều này xảy ra, thế hệ tương lai sẽ phải gánh chịu hậu quả từ người đi trước như thế nào?

GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng: - Thực tế này đúng là như vậy. Chúng ta hiện vẫn đang phải xử lý hậu quả tồn đọng thiệt hại cả về kinh tế và môi trường vì trước đây nhập cho doanh nghiệp công nghệ xi măng lò đứng cũ của Trung Quốc về.

Khi đó mỗi địa phương xin Chính phủ cho nhập một nhà máy xi măng nhưng giờ sống dở chết dở vì năng suất thấp, gây ô nhiễm môi trường và sản phẩm làm ra không ai mua vì giá thành quá cao, chất lượng thấp.

Tôi cho rằng bài học này vẫn còn nguyên giá trị nên không thể vì lợi ích của doanh nghiệp trước mắt để rồi chạy theo giải quyết hậu quả về sau rất mệt.

Trong khi đó cuộc cạnh tranh trong thế giới hội nhập này đòi hỏi rất cao và chắc chắn chúng ta sẽ thua vì năng lực cạnh tranh kém. Hiện tôi là Ủy viên Hội đồng phát triển bền vững quốc gia nên rất quan tâm đến năng suất lao động của Việt Nam.

Muốn nâng cao năng suất thì đương nhiên cần phải có thiết bị, công nghệ hiện đại cùng với chất lượng trình độ công nhân phải cao. Theo đó phải đào tạo công nhân giỏi và thiết bị phải hiện đại hóa.

Thế nhưng lúc này chúng ta lại thả lỏng cho công nghệ cũ vào, còn công nhân trình độ tay nghề có hạn thì chúng ta sẽ thua và nguy đổ vỡ nền kinh tế là điều khó tránh khỏi.

PV: - Thưa ông, chính sách ưu đãi với doanh nghiệp dùng công nghệ tiên tiến có thể là chìa khóa để giải quyết những khúc mắc hiện nay hay không? Muốn vậy, chúng ta nên làm thế nào?

GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng: - Về mặt nhà nước nên có khuyến khích. Nếu các doanh nghiệp đổi mới công nghệ cần được hỗ trợ thuế, nhận các ưu đãi khác như vay vốn, thuê mặt bằng...

Đây chắc chắn sẽ là chìa khóa, biện pháp hữu hiệu để giải quyết khúc mắc hiện nay. Khi đó phía quản lý vừa thực hiện được nhiệm vụ, trách nhiệm nhà nước giao cho, còn doanh nghiệp không cảm thấy bị thiệt hại quá nhiều khi quyết định đầu tư công nghệ hiện đại.

Để làm được điều đó, phía cơ quan quản lý cần sàng lọc đưa ra những yêu cầu, tiêu chí cụ thể đồng thời cũng phải có sức phép về hàng rào chất lượng sản phẩm. Khi đó buộc doanh nghiệp sẽ biết phải lựa chọn cái gì là tốt nhất cho mình. Và như vậy lâu dài cả doanh nghiệp và nền kinh tế đều được hưởng lợi.

Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!

2. TS Nguyễn Khắc Kinh, Chủ tịch Hội ĐTM thuộc VACNE

PV: - Sau khi bị tạm hoãn, hiện Bộ KHCN đang tiếp tục lấy ý kiến DN để hoàn thiện dự thảo Thông tư 20/2014 quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng. Tuy nhiên, các quy định như thiết bị đã qua sử dụng nhập khẩu vào Việt Nam phải có tuổi đời chưa quá 10 năm, và chất lượng còn 80% so với máy mới… bị doanh nghiệp vừa và nhỏ phản ứng gay gắt. Ông bình luận thế nào trước thực trạng này? Có thể đánh giá thế nào về sự hợp lý và bất hợp lý của phản ứng trên?

TS Nguyễn Khắc Kinh: - Tôi cho rằng trước hết phải xem Bộ Khoa học và Công nghệ dựa trên căn cứ nào để đưa ra quy định này. Nếu thấy đúng thì phải bảo vệ đến cùng, thuyết phục doanh nghiệp và Chính phủ.

Còn về phía doanh nghiệp nếu thấy chưa thỏa đáng thì cũng phải đưa ra bằng chứng. Thông lệ quốc tế ra sao, nếu Việt Nam áp dụng thì sẽ vi phạm điều gì, có khả thi hay không...

Còn việc doanh nghiệp nói sẽ thiệt hại nếu Thông tư này áp dụng vào thực tế thì cũng cần chứng minh.

Khi cả hai bên đưa ra những luận chứng khoa học mà không giải quyết được thì phải trình lên Thủ tướng hoặc thậm chí có thể là cấp cao hơn.

Cá nhân tôi từ lâu rất mong muốn ngành khoa học công nghệ phải có quy định ngăn chặn công nghệ lạc hậu để bảo vệ môi trường. Và khi Bộ có quy định này, ngay cả ngành môi trường cũng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều khi tiến hành thẩm định môi trường.

Trước đây không có quy định này việc thẩm định môi trường gặp rất nhiều khó khăn vì không có chứng cứ tiêu chí nào.

Còn doanh nghiệp kể cả ở các nước tiên tiến họ nhận thức rất tốt về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên tâm lý của họ luôn muốn mọi việc đơn giản, chi phí làm sao ít nhất có thể và lợi nhuận thì cao nhất có thể.

Chỉ trừ một số doanh nghiệp khi họ tính bài toán kinh tế về lâu dài họ đã chấp nhận bỏ vốn đầu tư ban đầu lớn, loại hẳn công nghệ lạc hậu ra ngoài danh sách. Nhưng con số này rất ít vì thực chất các quy định của Việt Nam không chặt chẽ.

Chính vì như vậy vẫn còn nhiều doanh nghiệp thực hiện theo kiểu càng nhẹ càng tốt. Họ mua công nghệ lạc hậu về nhưng có khi không nhằm mục đích sản suất. Nhất là các doanh nghiệp nhà nước thì điều này càng thể hiện rõ hơn. Có khi công nghệ được các nước bán với giá 1 USD, nhưng khi mua về khai là 3 USD chẳng hạn.

Ở đây không vơ đũa cả nắm nhưng thực chất là có doanh nghiệp như vậy mà tôi không tiện nêu tên. Vì vậy phản ứng từ phía doanh nghiệp chúng ta cũng phải xem chứ không phải tất cả đều hợp lý.

Một điều dễ thấy là doanh nghiệp nào cũng muốn càng đơn giản, dễ dãi càng tốt. Bây giờ quả bóng vẫn ở cả hai bên nên để bảo vệ quan điểm của mình thì cần có căn cứ, bằng chứng cho thuyết phục.
 

Công nghệ xi măng lò đứng là bài học đau xót mà Việt Nam từng gánh phải
Công nghệ xi măng lò đứng là bài học đau xót mà Việt Nam từng gánh phải


PV:
Dễ thấy, nếu doanh nghiệp sử dụng máy móc, thiết bị cũ thì chất lượng sản phẩm khó cạnh tranh, giá thành sản xuất bị nâng cao… Điều này sẽ làm giảm thiểu hơn nữa sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội trong bối cảnh hội nhập đã cận kề. Đứng ở phía người quản lý, có nên dung hòa lợi ích trước mắt của doanh nghiệp mà tự đánh mất sức cạnh tranh của nền kinh tế hay không và vì sao?

TS Nguyễn Khắc Kinh: - Trên thực tế các nước không cần cấm họ cũng loại dần công nghệ lạc hậu bởi vì cuối cùng sẽ tính vào giá thành. Nếu công nghệ cũ, lạc hậu sẽ khiến cho chi phí cao hơn, khả năng cạnh tranh kém nên buộc doanh nghiệp phải có lựa chọn.

Nhưng ở Việt Nam không thế mà có nhiều vấn đề. Nhiều khi người đi mua thiết bị chưa chắc đã hiểu rõ về sản xuất.

Ngay như thiết bị y tế cũng vậy, nếu giao cho bác sĩ đi mua thì họ có thể sẽ không lựa chọn những thiết bị vớ vẩn vì lương tâm nghề nghiệp cũng như trách nhiệm nghề cũng không muốn mua máy tệ về để chẩn đoán sai.

Nhưng đằng này người đi mua thiết bị lại không phải là ông bác sĩ. Thành ra cứ cái gì có lợi, hoa hồng nhiều thì người ta chọn thôi.

Trong bối cảnh hội nhập cũng như nhìn về tương lai tôi cho rằng đã cam kết quốc tế cái gì thì dứt khoát phải theo cái đó. Chúng ta không thể vì doanh nghiệp Việt Nam mà nhẹ tay để rồi cả nền kinh tế phải gánh chịu hậu quả.

Nếu đơn thuần chỉ vì lợi ích kinh tế, tất cả cũng phải tính vào giá thành sản phẩm nên bản thân doanh nghiệp cũng nên tự tìm cách cứu mình để nâng cao sức cạnh tranh. Vì mục đích tồn tại của chính mình.

PV: - Ở khía cạnh thu hút đầu tư, Thông tư 20 cũng vấp phải phản ứng từ các ông lớn. Thực tế, sau khi Thông tư bị tạm hoãn, Microsoft và LG đã thông báo chuyển nhà máy từ Trung Quốc về Việt Nam. Theo ông thả lỏng hàng rào công nghệ để đổi lấy đầu tư có phải là một lựa chọn khôn ngoan hay không và vì sao? Kinh nghiệm của các nước có điều kiện tương tự Việt Nam về vấn đề này như thế nào?

TS Nguyễn Khắc Kinh: - Đầu tư nước ngoài cũng có 5-7 loại. Có những công nghệ đã bị cấm, hạn chế ở các nước khác nên họ tìm cách đưa về Việt Nam. Hoặc thậm chí không cấm thì các loại phí môi trường, năng lượng quá cao khiến họ không thể duy trì tiếp vì nó sẽ đẩy giá thành nên quá cao.

Vì vậy các doanh nghiệp nước ngoài phản đối những quy định ngặt cũng là dễ hiểu bởi vì họ đang muốn đưa công nghệ lạc hậu vào Việt Nam.

Trong trường hợp này nếu chúng ta thả lỏng hàng rào chặn công nghệ cũ vào Việt Nam là đang tự mình hại mình. Hậu quả đó môi trường sẽ gánh đầu tiên.

Cho nên tôi cho rằng không nên hy sinh cái trước mắt để phải xử lý hậu quả lâu dài. Từ công nghệ sẽ liên quan đến môi trường, năng lượng, nhiên liệu, và cuối cùng sẽ là giá thành sản phẩm.

Cái được ban đầu có thể dễ nhìn thấy nhưng quá nhỏ so với cái chi phí về sau để xử lý hậu quả của công nghệ cũ. Bài học về xử lý ô nhiễm môi trường tại nhiều nước và ngay cả Việt Nam cũng đã thấy điều này rồi.

Nước ở gần chúng ta nhất như Trung Quốc họ cũng tìm mọi cách để loại dần các công nghệ lạc hậu nhằm nâng cao sức cạnh tranh và bảo vệ môi trường.

PV: Các chuyên gia đã nhiều lần cảnh báo về viễn cảnh công nghệ cũ của Trung Quốc sẽ ồ ạt tuồn sang Việt Nam do hệ quả quá trình cải cách (giai đoạn đau đớn) của Trung Quốc. Nếu không lập hàng rào công nghệ, điều này có đồng nghĩa Việt Nam sẽ trở thành bãi rác công nghệ thứ cấp của Trung Quốc hay không? Nếu điều này xảy ra, thế hệ tương lai sẽ phải gánh chịu hậu quả từ người đi trước như thế nào?

TS Nguyễn Khắc Kinh: - Điều này là một thực tế đã được nói đến nhiều. Do vậy cá nhân tôi rất mong muốn Bộ KH&CN có quy định cụ thể để bên môi trường có căn cứ để làm.

Điều muốn nói ở đây là công nghệ đó còn 80% chất lượng hay 60%, 70% thì cũng phải tính và có con số cụ thể.

Thực tế bài học từ việc cho nhập ồ ạt công nghệ xi măng lò đứng trước đây đến nay chúng ta đã phải lĩnh hậu quả. Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng và hàng loạt hậu quả khác.

Cho nên có lẽ không cần phải nghĩ tới thế hệ tương lai gánh chịu hậu quả này nếu chúng ta một lần nữa buông xuôi, thả lỏng để doanh nghiệp đưa công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ vào mà chúng ta cũng sẽ phải hứng chịu ngay thôi.

Và có lẽ nền kinh tế sẽ là nơi thể hiện sự ảnh hưởng rõ nhất khi không thể cạnh tranh.

PV:Thưa ông, chính sách ưu đãi với doanh nghiệp dùng công nghệ tiên tiến có thể là chìa khóa để giải quyết những khúc mắc hiện nay hay không? Muốn vậy, chúng ta nên làm thế nào?

TS Nguyễn Khắc Kinh: - Tôi nghĩ sự khuyến khích, ưu đãi sẽ là một trong những chìa khóa để giải quyết khúc mắc này.

Nhưng nếu chỉ chính sách nhập khẩu thì chưa đủ mà còn cần cả khuyến khích khác như (thuế, thuê đất đai...) để làm sao họ thấy được dùng công nghệ tiên tiến có lợi cả đôi đường, vừa sản phẩm có đủ sức cạnh tranh với thị trường mà doanh nghiệp cũng không bị quá sức khi đầu tư ban đầu.

Ngoài ra cũng cần có những quy định đánh vào sản phẩm để tạo sức ép buộc doanh nghiệp phải đổi mới.

Tôi nghĩ rằng nếu làm được điều này thì tự doanh nghiệp sẽ có những lựa chọn bởi hơn ai hết họ biết điều gì là có lợi cho mình nhất.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

  • Bích Ngọc (thực hiện)
 

Theo Bích Ngọc (Báo Đất Việt)

Lượt xem : 4412