Về Tây Giang
6/7/2015 10:00:00 PM
(VACNE) - Cuối tháng 5/2015, 4 nhà khoa học của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) được UBND huyện Tây Giang Quảng Nam mời về nghiên cứu rừng pơ mu nguyên sinh mới được huyện phát hiện năm 2011. Xin chia sẻ với bạn đọc một số cảm nhận ban đầu về vùng đất con người giàu truyền thống cách mạng này. Xin trân trọng cảm ơn Thầy giáo – Bí thư huyện ủy Tây Giang Bh’riu Liếc - đã đọc và góp nhiều ý kiến quý báu cho bài viết nhỏ này
Nguyễn Đình Hòe,
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt nam (VACNE)
1.Tây Giang- Quảng Nam - nằm trên đỉnh Trường Sơn, ngày xưa chưa có đường đi, Người Cơtu xưa theo vết chân con nai mà xuống dưới đồng bằng đổi muối gùi về, có khi đổi cả con heo to 5 gang tay lấy 1 ống muối, từ đó hình thành con đường mòn có tên là Con đường Muối nối với Hạ Lào. Bây giờ con đường Muối đã được nâng cấp thành đường nhựa nhưng cơ bản vẫn chạy theo Con đường Muối ngày xưa vì nó rất hợp lý.
2.Đường lên thăm rừng Pơ mu ngàn tuổi phải đi bằng xe Uaz. Dẫn đầu đoàn là chiếc xe ủi đất, hỗ trợ san đường và dọn các đống đất đá trượt lở.. Trên rừng còn hàng trăm "cụ" Pơ mu trên dướ ngàn năm tuổi. Rừng Pơ mu Tây Giang mới được huyện phát hiện năm 2011, là một rừng Pơ mu nguyên sinh duy nhất còn lại ở Việt Nam, vẫn còn rất ít dấu chân người. Ở độ cao 1500m, trong khi dưới đồng bằng đang nóng 39 độ thì ở đây gió lạnh như Tam Đảo, Bà Nà.
3.Người Tây Giang thường uống rượu tr'đin, làm từ nước chích ra từ thân cây tr'đin (giống như cây đoác, cây báng, cây móc), thêm chút men là vỏ cây apăng (còn có tên là cây chuồn) sấy trên gác bếp, ủ ngay trong ống lồ ô trên thân cây. Rượu tr’đin rất nhẹ, giống vị rượu vang. Dịp bạn bè gặp nhau, mỗi người có thể uống mươi bát, "đi" với thịt heo hay gà nướng, cá nướng, và một số món đặc trưng Tây Giang khác. Uống rượu tr'đin leo rừng rất khỏe, ít bệnh tật. Những bữa ăn sang trọng của người Cơtu Tây Giang có nhiều món nhưng không thể thiếu cơm lam và xôi sắn. Những món truyền thống thường được bầy trên lá chuối tuy cũng có thể đựng vào bát đĩa hay mẹt. Cơm lam và xôi sắn gợi nhớ đến bà con Kinh, Mường, Thái , Tày,... miền núi phía Bắc, nhưng không thấy ở các cộng đồng dân tộc khác ở miền núi Trường Sơn - Tây Nguyên
4.Vào những dịp lễ hội, phụ nữ Cơtu Tây Giang tham gia vào vũ điệu Ya - ya (người Tây Giang đọc là da'dă) : phụ nữ đứng thành vòng tròn quanh cây cột tế giữa làng, hai chân dạng ra, xòe rộng hai bàn tay dơ lên hứng trời. Nhiều người gọi đó là vũ điệu hình con ếch (?) để cầu mưa thuận gió hòa mùa màng bội thu. Vũ điệu này thường được thêu trên thổ cẩm dệt váy của phụ nữ Cơtu. Đây là vũ điệu có từ thời tiền sử, được vẽ trên đá vùng dân tộc Choang (Quảng Tây – Trung Quốc) thuộc vùng cư trú của người Lạc Việt cổ, và một điểm ở Thailand. Nhưng ở các cộng đồng khác trên Trường Sơn - Tây Nguyên thì không gặp
5.Trong nhà Gươl (nhà làng, nơi sinh hoạt văn hóa của làng) Tây Giang, xương (và tượng gỗ) đầu trâu có ở nhiều vị trí, ngay cả ở bậu cửa ra vào. Cái bậu này cao đến 80 cm, người vào phải bước (thường là trèo) qua đầu con trâu mới vào được nhà. Trên các xà ngang là các tượng gỗ rắn, rùa, cá,...không thấy hổ báo hươu nai. Có cảm giác tổ tiên người Cơtu là dân nông nghiệp đồng bằng chứ không phải người xứ rừng thẳm núi cao như bây giờ. 99.9% người Cơtu Tây Giang nói giọng Bắc. Người Cơtu da trắng trẻo, phụ nữ có mái tóc đen dài, khác hẳn nhiều cộng đồng dân tộc khác có da đen tóc xoăn trên Trường Sơn - Tây Nguyên.
6.Trong những năm thập niên 80 của thế kỷ trước người dân Cơt - Tây Giang liên tiếp phát hiện được trống đồng cổ trong lòng đất.Theo Bảo tàng Quảng Nam, đây là những chiếc trống đồng cổ loại II - Hê Gơ, có tuổi từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI sau Công nguyên. Đặc biệt trên 1 chiếc còn 4 cụm tượng thú nhỏ, mỗi cum 3 con vật cưỡi lên nhau. Những con vật này chân cao bụng thon đầu nhọn nên không phải cóc như nhiều người nghĩ, mà giống thú hơn, nhưng là những con thú rất lạ. Trống đồng ngoài Bắc thì nhiều, nhưng khắp Trường Sơn - Tây nguyên chỉ có Tây Giang mới có trống đồng. Cơtu có nghĩa là "Con người ở Đầu sưối Ngọn sông". Quả thật Tây Giang ở trên đỉnh Trường Sơn, đầu nguồn sông Avương . Tây Giang chỉ có nước chảy đi mà không có nước chảy đến. Khẳng định mình là Con Người - nghĩa là "không chịu làm nô lệ". Việc ở Đầu suối Ngọn sông cho thấy Cơtu là cộng đồng đến sau, những vùng dễ sống khi đó đã có chủ. Việc phát hiện nhiều Trống đồng Hê gơ II cho phép phán đoán thời điểm người Cơtu định cư ở Tây Giang là khoảng đầu Công Nguyên.
7.Các cụ ông Tây Giang thường hát lý để trao đổi với nhau hoặc để dạy dỗ con cháu tại nhà Gươl (nhà làng). Lý có làn điệu định sẵn, nhưng không có lời. Lời là do người hát tự ứng tác tại chỗ, không soạn sẵn. Những câu lý luôn xuất phát từ cái tâm người hát, là cái lý ở đời, nên người hát không thể nói xạo, không thể dùng hát lý để dè bỉu hay tâng bốc ai cả. Vì vậy chỉ có các vị cao niên đức cao vọng trọng trong làng mới được quyền hát lý khai tiệc.
8.Nhiều trăm năm trước, người Cơtu Tây Giang còn tục săn đầu người vào những tháng không làm rẫy. Đầu người cắt được để cúng Giàng ở ngoài rừng gần làng. Hai làng nếu săn đầu đàn ông của nhau thường kéo theo nhiều hệ lụy hận thù dai dẳng nên rất cần sự trợ giúp giải quyết, hoà giải của bạn bè các làng lân cận. Theo các cụ cao niên kể rằng: cách đây khoảng 8-9 đời người tại làng A'rầng đâm chém nhau với một làng khác cách xa vài ngày đường đi bộ, người dân trong làng luôn lo âu, sợ sệt của sự thù hằn. Biết vậy làng Abỵ vốn là bạn bè của làng A'rầng nên đứng ra hoà giải tạo cho hai làng kia hết hận thù. Biết ơn làng Abỵ, làng A'rầng mời làng Abỵ đến làng mình kết nghĩa làm anh em tốt của nhau và họ trồng 2 cây đa tại cổng của hai làng làm minh chứng cho tình đoàn kết. Hiện nay đôi cây đa đó vẫn còn, các nhà khoa học đã chứng minh có tuổi đời trên 700 năm . Từ đó đôi cây đa này còn có tên là cây Đoàn kết (dịch ra tiếng phổ thông). Cạnh đó là đền thờ hai "cụ" cây đa này. Hai "cụ" sẽ được vinh danh là Cây di sản VN. Việc trồng và thờ thần cây đa là tín ngưỡng rất phổ biến của người Việt xứ Bắc.
9.Vào những năm 1930, có một sỹ quan Pháp ở Đông Dương rất say mê nghiên cứu dân tộc học. Đó là ông Le Picheon. Nhà nghiên cứu nghiệp dư này rất ngưỡng mộ nền văn hoá của dân tộc Cơtu. Bằng nhiều cách đi bộ, đi ngựa, đi võng, Le Picheon bỏ nhiều ngày leo đèo, vượt suối, xuyên rừng lên tận vùng đất hiểm trở Tây Giang. Năm 1938, ông công bố cuốn sách có tên "Những kẻ săn máu" (Les Chasseurs de Sang). Cho đến nay, đó vẫn là một tài liệu kinh điển về vùng đất và văn hoá Cơtu ở Việt Nam. Trong cuốn sách đó, khác với nhiều tài liệu kỳ thị chủng tộc đương thời, Le Picheon bày tỏ sự ngưỡng mộ một dân tộc sống biệt lập với thế giới bên ngoài, nhưng hoàn toàn không phải một "bộ tộc dã man" mà là một tộc người văn minh nhưng đang suy thoái do bị cô lập.
10.Từ tất cả những điều đã nói trên, không nghi ngờ gì nữa, Cơtu là một cộng đồng dân cư Lạc Việt cổ, di cư về Tây Giang vào đầu Công Nguyên, có lẽ do không chịu khuất phục trước giặc Hán. Người Cơtu Tây Giang qua hàng ngàn năm bị cô lập nên vẫn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống cổ xưa của Tổ tiên Lạc Việt - con cháu vua Hùng.
Đến với Tây Giang là VỀ CỘI NGUỒN.
Lượt xem : 1802