Sinh kế rừng khộp ở Việt Nam
9/2/2013 11:46:00 AM
(VACNE) - Hệ sinh thái rừng khộp không chỉ là rừng, càng không phải là rừng nghèo. Đó là kiểu hệ sinh thái đặc biệt chỉ duy nhất có ở ĐN Á. Rừng khộp cần phát triển thành kiểu rừng đa mục đích, đa nguồn lợi như nhân trồng dược liệu dưới tán rừng, chăn thả gia súc có sừng, nuôi bán hoang dã thú lai, trồng xen cây công nghiệp với mức độ hợp lý,…
Nguyễn Đình Hòe[1] và Phạm Đức Tú[2]
Rừng khộp là một kiểu rừng đặc trưng với các cây thuộc họ Dầu lá rộng (Dipterocarpaceae) chiếm ưu thế, chỉ có ở khu vực Đông Nam Á. Kiểu rừng này xuất hiện ở những vùng có khí hậu hai mùa mưa – khô rõ rệt[3],[4]. Vào mùa khô, rừng khộp trơ trụi lá, tầng thảm mục dày rất dễ tự bốc cháy do nhiệt ô xy hóa than bùn tích lũy lại trong tầng thảm mục (không kể người địa phương đốt để chờ mùa mưa cỏ non mọc, dẫn dụ thú hoang về để săn bắn). Tuy nhiên, chính lửa lại là yếu tố tích cực tạo sức tái sinh mãnh liệt của rừng khộp. Chỉ cần có một cơn mưa nhỏ là cả khu rừng lập tức xanh trở lại. Trong suốt mùa mưa, cây cối trong rừng khộp phát triển mạnh. Rừng khộp là nơi tập trung nhiều loài thú lớn như: hươu, nai, voi, hổ, khỉ, vượn …, trong đó có các loài thú quí hiếm một thời của thế giới như bò xám (Bos sauveli), bò rừng, tê giác (Rhinoceros)…[5]
Rừng khộp hiện tại bị coi một cách sai lầm là kém hiệu quả kinh tế và đang bị chặt hạ để chuyển đổi sang trồng đại trà các loại cây khác. Thực tế nhiều nhà quản lý cũng chưa hiểu hết được các giá trị của rừng khộp, cả về kinh tế và sinh học, sinh thái. Hàng trăm hecta rừng khộp đang bị chuyển đổi sang trồng đại trà cao su, cà phê… Có những địa phương lợi dụng chặt hạ rừng khộp “nghèo” mặc dù khối lượng gỗ tận thu được lên tới 9.5m3/ha[6].
1.Rừng khộp ở Việt Nam
Rừng khộp phân bố tập trung ở tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai. Ngoài ra còn rải rác ở Di Linh (Lâm Đồng), Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Tây Ninh. Rừng khộp là không gian sống của rất nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam như Ê Đê, M’Nông, Lào và Gia Rai,... Chúng đáp ứng mọi nhu cầu sinh hoạt của người dân bản địa. Cuộc sống, sinh kế của họ từ ngàn đời đều dựa vào rừng, trong đó có các cánh rừng khộp mênh mông. Sinh kế chủ yếu của người dân là các loại cây lương thực từ rừng, thú rừng, gỗ củi, cây thuốc và các sản phẩm phi gỗ khác. Và trên cơ sở đó, nền văn hóa rừng (khộp) đã hình thành và phát triển cả ngàn năm qua.
Với diện tích khoảng hơn nửa triệu hécta, chiếm 1/3 tổng diện tích rừng khộp của ĐN Á. Rừng khộp là một kiểu cảnh quan đặc biệt. Rừng khộp Việt Nam là phần rìa của vùng phân bố rừng khộp rộng lớn của vùng ĐN Á trải dài từ Mianma, qua Thailand, Lào, Camphuchia, rộng trên 15.000 km2 (1.500.000 ha).Rừng khộp có những loài cây gỗ lớn có giá trị, lâm sản ngoài gỗ như dầu nhựa, tananh, dược liệu v.v…và tài nguyên động vật khác chủ yếu là nhóm thú lớn
Các loài cây rừng khộp có tính thích nghi cao với khô hạn và cháy rừng. Ngoài những loài cây họ Dầu chiếm ưu thế còn có đại diện của một số loài khác như: cẩm xe (Xylia xylocarpa), lọng bàng (Dilleniahe terosepala) đẻn (Vitex pendencularia),mai xiêm (Ochrocarpus sp),mà ca (Buchanania arborescens) v.v…. Ở điều kiện lập địa tốt, có thể xuất hiện một số loài cây có giá trị như giáng hương (Pterocarpus macrocarpus), cẩm lai (Dalbergia bariensis) v.v…Ven sông suối có thể gặp một số loài dầu nước, sao đen v.v, nhưng với số lượng ít và không phải là loài cây điển hình của rừng khộp [7].
2. Sinh kế rừng khộp ở Việt Nam
2.1.Khai thác tinh dầu.
Nhựa từ cây họ Dầu ở rừng khộp có thể được phân chia thành hai nhóm: nhựa dầu (nhựa lỏng hoặc dầu gỗ) và nhựa rắn. Nhựa lỏng thu thập từ các loài Dipterocarpus được sử dụng rộng rãi hơn so với nhựa rắn. Nhựa lỏng và / hoặc nhựa rắn từ những cây họ dầu khác có thể được pha trộn với nhau để thắp sáng, trám thuyền , y học cổ truyền, hoặc sơn. Nhựa lỏng là một nguồn thu nhập quan trọng của nhiều cộng đồng rừng đặc biệt là trong mùa khô, có thể kéo dài tới 6 tháng trong năm[8].
Nếu khai thác mỗi cây dầu trưởng thành cho từ 6 đến 7 kg, thì hằng năm sản lượng dầu lỏng khai thác toàn vùng thật sự không nhỏ. Bên cạnh cây cho dầu lỏng còn có cây cẩm liên (Sindora siamensis), sao đen (Hopea odorata) tiết nhựa ra một cách tự nhiên dọc vỏ thân cây không rơi xuống đất mà đọng lại như nhũ đá, có mầu trắng. Hàm lượng tinh dầu trong nhựa dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb) tới 50% được dùng làm sơn, chất đánh bóng gỗ. Nhân dân địa phương thường dùng thắp sáng, sơn quét các đồ dùng gia dụng bằng mây tre, nứa. Quần thể thực vật họ dầu phát triển chiều cao rất nhanh, khi cao tới 10-15 m. Sau đó chúng cao chậm để hình thành một lớp vỏ cây dày cứng thích nghi với nạn cháy rừng.[9]
Người dân bản địa có kinh nghiệm và phương pháp truyền thống trong khai thác dầu ở rừng khộp. Một bên của một thân gỗ được cắt nhỏ để tạo ra một lỗ ngược dốc 0,4-1,0 so với mặt đất, đường kính ít nhất 45 cm. Vài ngày sau đó, người dân đến thu hoạch, lần đầu tiên, nhựa dầu được rút ra từ mạch gỗ và được trữ trong các lỗ. Sau đó, nhựa dầu còn lại trong lỗ được sử dụng làm nhiên liệu để đốt cháy bề mặt phía trong của lỗ khoảng 2-3 phút để kích thích sự tiết dịch của nhựa dầu. Lần thu hoạch thứ hai của nhựa dầu xảy ra một tuần sau đó. Quá trình thu hoạch này được thực hiện trong 1-2 tuần. Công việc thu hoạch và đốt có thể được coi như một chu kỳ khai thác kéo dài trong 1-2 tuần và được lặp đi lặp lại cho đến khi nhựa được sử dụng hết. Sau hai hoặc ba chu kỳ, bề mặt của lỗ có thể hơi chặt để bị trơ, việc đốt làm cho thân gỗ cứng lại, ngăn nhựa dầu chảy[10].
Hiện nay việc khai thác nhựa đã bị cấm vì kỹ thuật đốt lỗ cây khộp để kích thích sự tiết dịch của nhựa có nguy cơ gây cháy rừng. Tuy nhiên việc khai thác gỗ cây họ dầu vẫn tiếp tục và còn có xu hướng gia tăng.
2.2,Phát triển chăn nuôi gia súc có sừng trong rừng khộp
Rừng khộp phát triển chủ yếu trên địa hình cao, có các khe suối, có nhiều tầng, tầng thảm mục dày, đất tơi xốp. Tận dụng thảm cỏ mọc dưới tán rừng tự nhiên có thê chăn thả đàn gia súc có sừng trong rừng. Tuy nhiên, lượng cỏ mọc dưới tán rừng khộp là rất hạn chế. Chính vì vậy, người dân có thể trồng thêm cỏ voi, cỏ ghi nê bên ngoài diện tích rừng khộp. để bổ sung thêm nguồn thức ăn cho gia súc. Nhiều nơi như Ninh Thuân, Đắc Lắc, đàn gia súc có sừng phát triển khá nhanh, nhưng đồng cỏ tự nhiên ít; hầu hết các hộ nông dân đã đưa gia súc vào rừng để chăn thả. Huyện M’Đrắc Đắc Lắc phát triển nhiều trang trại chăn nuôi bò với quy mô đàn từ vài chục đến trên 150 con trở lên. Các chủ trang trại và hộ nông dân đã chăn thả đàn bò trên đồng cỏ tự nhiên và dưới tán rừng. đã thu lãi tính trên 1 con bò mẹ mỗi 1 năm được từ 1 đến trên 1,2 triệu đồng. Những hộ nông dân nuôi số lượng nhiều, mỗi năm có nguồn lợi từ 30 đến trên 100 triệu đồng. Vào mùa mưa, khí hậu ôn hòa, dịu mát, cây cỏ xanh tươi, phát triển mạnh là ưu điểm thuận lợi nhất cho việc phát triển đồng cỏ chăn nuôi bò. Một số hộ ở xã Cư M’lan huyện Ea Súp, Đắc Lác đã xây dựng trang trại chăn nuôi bò thịt dưới tán lá rừng đạt được hiệu quả kinh tế cao. Mô hình kinh tế trang trại bò thịt dưới tán lá rừng khộp mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn hình thức chăn nuôi thường từ 30-34%. Lợi nhuận thu về từ một con bò sinh sản từ 2,5-3 triệu đồng/năm. Ngoài ra, số phân chuồng được thu gom mỗi năm là nguồn bổ sung phân bón cho cây trồng, góp phần tiết kiệm chi phí cho nông dân và giảm ô nhiễm môi trường[11].
2.3.Trồng cây téch xen dưới tán rừng khộp
Tếch có yêu cầu sinh thái giống như các loài cây họ dầu, chịu được lửa, cường độ chiếu sáng cao, do đó có hả năng thích ứng để làm giàu rừng hộp. Trồng tếch trong rừng khộp nghèo sẽ làm gia tăng chức năng sinh thái của rừng, tăng độ che phủ rừng, tăng mật độ cây rừng kể cả cây trồng từ stump hiện tại và cây tếch tái sinh tự nhiên trong tương lai. Chất lượng rừng khộp sẽ cải thiện chức năng phòng hộ như chống xói mòn đất, điều tiết nguồn nước, bảo tồn đa dạng sinh học như tạo điều kiện nơi sống cho các loài thú lớn, phát triển lâm sản ngoài gỗ….Điều kiện tiểu khí hậu khắc nghiệt của rừng khộp sẽ được cải thiện theo hướng tích cực hơn. Dự kiến sau 15 năm có thể thu hoạch tếch dạng gỗ nhỏ có đường kính trung bình khoảng 15cm, chiều cao 13m. Rừng hộp nghèo được tồng xen tếch sau 15 năm có thể khai thác được khoảng 500 cây, năng suất gỗ ước đạt 40m3 / ha. Vì chu kỳ sinh trưởng tếch dài, 12-15 năm, cần cấp quyền sử dụng rừng lâu dài cho hộ gia đình, cộng đồng và các hộ dân cũng như ưu đãi trong vay vốn trong giai đoạn đầu [12] .
2.4.Nuôi heo rừng lai với heo địa phương trong rừng khộp nghèo
Trong rừng khộp nghèo, có thể tạo ra nguồn thu nhập từ việc nuôi heo lai bán hoang dã cho sản phẩm heo thịt và heo giống chất lượng, có nguồn gốc rõ ràng và bán được giá cao. Việc gây nuôi heo rừng lai trong rừng khộp nghèo không làm suy giảm đa dạng sinh học, ngược lại có thể làm giàu rừng với các loài cây che bóng và làm thức ăn bổ sung cho heo rừng, có thể thu hút heo rừng tự nhiên trở lại, vì rừng khộp vốn là sinh cảnh phù hợp của heo rừng. Vấn đề cần chú ý trong gây nuôi là phải phát triển nhưng đảm bảo mật độ phù hợp, tránh gây mất cân bằng sinh thái.
Nuôi heo lai dưới tán rừng khộp nghèo không gây tác động xấu đến sinh thái và môi trường rừng, heo không ăn hoặc phá cây tái sinh dưới rừng khộp. Nếu quản lý tốt có thể dẫn dụ hoặc phối giống được với heo rừng tự nhiên làm tăng sự đa dạng sinh học. Tính toán cho mô hình với tổng số 10 con giống ban đầu, trong đó 2 con đực lai, 1 heo nái lai và 7 heo nái địa phương được gây nuôi trong khu vực rừng khộp nghèo: Với mô hình này: Chi phí cho một năm là 44 triệu đồng. Tổng thu một năm là 80 triệu đồng. Lãi một năm là 36 triệu đồng[13]
2.5.Trồng cây công nghiệp xen dưới tán rừng khộp
Ngoài các kiểu sinh kế đã nêu, Tây Nguyên cũng đã áp dụng một số hình mẫu trồng cây công nghiệp khác như: chuyên canh cây cà phê hay cây cao su. Tuy nhiên việc chuyên canh này đã gây những ảnh hưởng xấu đến độ đa dạng và tàinguyên của rừng khộp. Nếu chỉ nhìn thấy bề ngoài của rừng khộp, cây thưa thớt, khô khốc tưởng chừng như một khu rừng “chết” mà chuyển sang trồng loại cây khác như cao su, cà phê…. thì quả là sai lầm.
Việc chuyển đổi rừng khộp sang cây công nghiệp đại trà cần được cân nhắc. Nên trồng cây công nghiệp hỗn giao theo đám, theo băng (diện tích đủ lớn) xen kẽ với rừng tự nhiên để các loại cây hỗ trợ sinh thái cho nhau như trong các khu rừng tự nhiên.Mô hình trồng xen này có “thế mạnh” hơn ở các vườn cây công nghiệp độc canh,đại trà.[14].
Kết luận
- Hệ sinh thái rừng khộp không chỉ là rừng, càng không phải là rừng nghèo. Đó là kiểu hệ sinh thái đặc biệt chỉ duy nhất có ở ĐN Á. Rừng khộp là nơi sinh cư của nhiều loài thú lớn, đa dạng sinh học cao, đem lại nhiều nguồn lợi đa dạng cho sinh kế địa phương và có thể phát triển nhiều nguồn lợi khác nếu biết sử dụng hợp lý. Hệ sinh thái rừng khộp còn là cội nguồn nuôi dưỡng nền văn hóa rừng đặc sắc của nhiều cộng đồng bản địa.
- Rừng khộp cần phát triển thành kiểu rừng đa mục đích, đa nguồn lợi như nhân trồng dược liệu dưới tán rừng, chăn thả gia súc có sừng, nuôi bán hoang dã thú lai, trồng xen cây công nghiệp với mức độ hợp lý,… Trồng cây xen dưới tán rừng không chỉ giúp cho rất nhiều loài tránh được nguy cơ tuyệt chủng mà còn hữu ích với cả những người nông dân do họ không cần hoặc sử dụng rất ít thuốc trừ sâu và phân bón hóa học. Ngoài ra, có thể thu hoạch các loại san phẩm phi gỗ như hoa quả, củi, gỗ, cây thuốc từ những cây cho bóng râm.
- Cần bảo đảm điều kiện pháp lý để phát triển gây nuôi động vật bán hoang dã: chăn nuôi gia súc có sừng và động vật rừng lai bán hoang dã là một hướng đi cần được khuyến khích, nó góp phần vào việc phát đa dạng sinh học rừng, giải quyết vấn đề xã hội trong quản lý bảo vệ rừng, đạt được hiệu quả kinh tế, cung cấp sản lượng thịt rừng có chất lượng và xuất xứ rõ ràng.
[1] Nguyễn Đình Hòe,Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE)
[2] Phạm Đức Tú, Khoa Môi Trường, Đại học KHTN, ĐHQG Hà Nội
[4] Dipterocarps taxonomy, ecology and silviculture: Simmathiri Appanah and Jennifer M. Turnbull.
[6] Ngô Duy Khánh(2009) Tài liệu đã dẫn
[7] Phùng Ngọc Lan, Phan Nguyên Hồng, Triệu Văn Hùng, Nguyễn Nghĩa Thìn, Lê Trần Chấn. 2006. Hệ sinhthais rừng tự nhieenVieetj Nam. 3.5 Hệ sinh thái rừng thưa cây họ dầu (rừng khộp, dry dipterocarp forest) BoojNN và PTNT.
[9] Ngô Duy Khánh (2009). Tài liệu đã dẫn
[10] Ngô Duy Khánh (2009). Tài liệu đã dẫn
[13]Kỹ thuật nuôi heo rừng lai với heo địa phương trong rừng khộp nghèo www.socialforestry.org.vn/.../Huong%20dan%20ky%20thuat%20heo%2...
Lượt xem : 9238