Khủng hoảng nước - Việt Nam không ngoại lệ
Mặc dù có trữ lượng nước khá dồi dào, nhưng 63% tổng lượng nước mặt của Việt Nam lại bắt nguồn từ các quốc gia khác. Chẳng hạn, ở lưu vực sông Hồng, nguồn nước ngoại lai từ Trung Quốc chiếm 50% tổng khối lượng nước bề mặt. Còn ở lưu vực sông Cửu Long, 90% tổng khối lượng nước bề mặt có nguồn gốc ngoại lai, chủ yếu từ phần sông Mekong nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam. Chúng ta không thể chủ động bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn nước ngoại lai. Nhất là vào những năm gần đây, sự khai thác nguồn nước của các quốc gia ở thượng nguồn ngày càng gia tăng. Trung Quốc đã và đang xây dựng hơn 10 hồ chứa lớn trên sông Mekong. Thái Lan xây 10 hồ chứa vừa và lớn. Campuchia có dự kiến giữ mực nước Biển Hồ ở một cao trình nhất định để phát triển thủy lợi. Nguồn nước nội địa chỉ đạt mức trung bình kém của thế giới -khoảng 3.600m3/người/năm, thấp hơn mức bình quân toàn cầu là 4.000m3/người/năm khiến Việt Nam thuộc diện quốc gia thiếu nước.
Nhằm hạn chế nhu cầu cũng như chống thất thoát nước, đồng thời tăng cường quản lý tài nguyên nước, nhiều chính sách đã được áp dụng. Luật pháp về bảo vệ và quản lý tài nguyên nước đã được ban hành tại nhiều quốc gia. Song, trên thực tế, những cải cách, đổi mới này vẫn chưa thực sự có hiệu quả, công việc thường chỉ giới hạn trong ngành nước. Vì vậy, muốn thực sự có hiệu lực, các quyết định cho vấn đề nước cần thiết có sự tham gia của lãnh đạo của tất cả các ngành, trong đó có các ngành nông nghiệp, năng lượng, thương mại và tài chính, bởi tất cả các ngành này đều có ảnh hưởng quyết định đến quản lý tài nguyên nước. Ngoài ra, sự cộng tác, phối hợp giữa khối nhà nước với khối tư nhân và cộng đồng xã hội cũng hết sức quan trọng. |