Vietnamese English
Phát triển bền vững biển: Không gian biển và quy hoạch không gian biển

6/19/2012 6:20:00 PM

(VACNE)-Khác với trên đất liền, không gian kinh tế biển rộng mở, khá đa dạng và luôn tác động tương hỗ nhau cả về mặt tự nhiên và phát triển theo các cấp độ khác nhau - PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi trường Việt Nam.

 
 
Từ quan niệm như vậy sẽ thấy tiềm năng không gian biển cho phát triển kinh tế biển nước ta còn rất lớn, tập trung vào các mảng không gian chính yếu gồm không gian vùng ven biển (duyên hải); không gian biển; không gian đảo; và không gian đại dương. Đối với kinh tế biển cả bốn mảng không gian này đều rất quan trọng vì nó cung cấp những tiền đề, tiềm năng và lợi thế khác nhau cho phát triển kinh tế biển.
 
Dải ven biển
 
Là không gian chuyển tiếp giữa lục địa và biển, dải ven biển luôn chịu tác động tương tác qua lại giữa các quá trình lục địa và biển. Năng lực nội sinh và nhu cầu nội vùng ở dải ven biển nước ta rất đáng kể: tập trung đa dạng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các hệ thống tài nguyên và hệ sinh thái quan trọng bậc nhất tạo tiền đề cho phát triển đa ngành, đa mục tiêu. Nơi đây tập trung khoảng trên 50% dân số cả nước (tính cho các tỉnh ven biển) và khoảng 30% (tính cho các huyện ven biển); khoảng 50% các đô thị lớn với kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và nhiều khu công nghiệp lớn đang được đầu tư phát triển mạnh, trong đó có ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia. Một dải đất hẹp với bờ biển dài như vậy (trên 3260 km) vừa có lợi thế trong phát triển kinh tế vừa là khu vực phòng thủ đất nước mang tính chiến lược. Để phát huy thế mạnh và hạn chế điểm yếu, việc đa dạng hoá các loại hình phát triển đối với các vùng tự nhiên-sinh thái ven biển khác nhau về bản chất là một nhiệm vụ mang tầm chiến lược. Nói cách khác phải tạo ra lợi thế và “đặc sản” vùng miền trong quá trình phát triển để tránh các “hội chứng xấu” trong phát triển.  
 
Dải ven biển được xem là vùng kinh tế động lực, có khả năng phát triển nghiều ngành, nghề khác nhau (du lịch, cảng biển, thủy sản, khai khoáng,…), cho nên đầu tư vào khu vực này một cách hiệu quả sẽ tạo ảnh hưởng lan toả hỗ trợ cho phát triển vùng nội địa (khu vực trung du-miền núi), đồng thời tạo cơ sở cho phát triển một nền kinh tế biển hiệu quả lâu dài. Đặc biệt cần chú ý đến phát triển dịch vụ cảng “quá cảnh” đối với các nước hoặc vùng lãnh thổ không có biển lân cận nước ta và vùng nội địa rộng lớn của khu vực các nước ASEAN, cũng như các dịch vụ hàng hải và tìm kiếm cứu nạn trên Biển Đông. Điều này tạo ra tiền đề cho việc hoạch định một chiến lược kinh tế biển tầm cỡ gắn với một nền quốc phòng và an ninh trên biển vững chắc, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển. Dải ven biển còn là “bàn đạp” tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt động ở các vùng biển xa bờ thông qua các trung tâm kinh tế trên các hải đảo. Cho nên, dọc ven biển phải kiến tạo được các cực phát triển mạnh, hướng biển (các đô thị lớn và trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội,...ven biển) có bán kính ảnh hưởng rộng ra biển, có khả năng đối trọng với các cực phát triển lớn trong khu vực Biển Đông, và các hành lang/tam giác kinh tế tăng trưởng ven biển.
 
Vùng nước lợ cũng là mảng không gian thuộc dải ven biển có diện tích hẹp, nhưng cực kỳ quan trọng đối với phát triển “quỹ đất dự phòng quốc gia” và thuỷ sản bền vững. Đây là nơi cư trú tự nhiên, nơi sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của nhiều loài thuỷ sinh vật không chỉ ở ngay vùng này mà còn từ ngoài khơi vào theo mùa (90% các loài thuỷ sản sống ở vùng biển thềm lục địa và biển xa có tập tính gắn bó với vùng nước cửa sông, ven bờ). Các hệ sinh thái quan trọng (rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn...) đều tập trung ở vùng này đã cung cấp tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) biểnvà nguồn giống hải sản tự nhiên cho nghề khai thác và nuôi trồng thuỷ, hải sản. Chúng có tính liên kết (connectivity) sinh thái tự nhiên mật thiết với nhau và tạo ra những “dây xích sinh thái” quan trọng đối với toàn vùng biển, mà một trong các mắt xích bị tác động sẽ ảnh hưởng đến các mắt xích còn lại.
 
Ở nước ta, diện tích có khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) ở vùng triều khoảng 1.130.000 ha, diện tích trồng lúa, cói và làm muối hiệu quả thấp ở ven biển có thể chuyển đổi sang NTTS khoảng gần 500.000 ha. Diện tích các vùng đầm phá tập trung ở các tỉnh miền Trung (từ Thừa Thiên-Huế đến Bình Thuận) có khả năng phát triển thuỷ sản khoảng 12.000 ha. Ngoài ra, có khả năng đưa 20.000 ha vùng bãi ngang sát biển vào NTTS với điều kiện phải bảo vệ nguồn nước ngầm ngọt khan hiếm ở ven biển. Thời gian qua, NTTS nước lợ được tiến hành ở vùng ven biển đã đóng góp gần 60% tổng sản lượng thuỷ sản toàn quốc, góp phần đáp ứng khoảng gần 40% lượng protein động vật cho người dân.
 
Với tiềm năng phong phú và đa dạng như vậy, dải ven biển nước ta tập trung sôi động các hoạt động phát triển, là nơi phát triển đa ngành, kéo theo nhu cầu liên kết vùng và giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong phát triển và phải được quản lý dựa vào hệ sinh thái.  
 
Hệ thống đảo
 
Ở đây, muốn nhấn mạnh tới đặc trưng mảng không gian của hệ thống gần 3000 đảo ven bờ và hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa. Nước ta có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế hải đảo. Mỗi hòn đảo quý giá như một “thỏi bạc lớn” và cũng là một “cột mốc chủ quyền” trên vùng biển của tổ quốc. Bên cạnh các giá trị cảnh quan nổi, quanh đảo còn quy tụ các hệ sinh thái quan trọng đối với nguồn lợi hải sản, đối với phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển. Trên đảo có các làng cá, di tích văn hoá và lịch sử thuần Việt phản ánh “văn hoá làng chài” và “văn minh biển cả”,… hay còn gọi chung là “văn hóa ứng sử biển cả”, góp phần tạo ra các gía trị du lịch nghề cá mà đến nay chưa được khai thác và phát triển theo đúng nghĩa.
 
Không ít đảo có lợi thế địa lý, có thể xây dựng thành trung tâm kinh tế hải đảo với cơ sở hậu cần nghề cá và dịch vụ biển xa hiện đại. Đặc biệt, trong vùng quần đảo san hô Trường Sa có khoảng gần 1.000.000 ha đầm phá nông (độ sâu 1-6m) thuộc các rạn san hô vòng (atoll) có môi trường thuận lợi cho nuôi hải đặc sản. Hàng năm thế giới đã xếp hạng 10 đảo “đắt nhất”, còn các đảo của nước ta đang được khai thác một cách tự phát, “mạnh ai người ấy làm”, “thấy có cái gì thì khai thác cái đó”, hoàn toàn trực quan, thiếu quy hoạch và thiếu cơ sở khoa học đối với một đối tượng đặc thù. Do đó, cần xác định chức năng theo thế mạnh của từng đảo hoặc cụm đảo và tiến hành quy hoạch/lập kế hoạch phát triển kinh tế hải đảo. Quy hoạch phát triển kinh tế hải đảo là cụ thể nhưng cần đặt trong tư duy tổng thể phát triển hệ thống đảo và từng vùng biển, cũng như phải nhìn cả ở giác độ địa kinh tế, địa chính trị và các vấn đề xã hội, với tính liên kết với dải ven biển, thậm chí phải tính đến tác động của biến đổi khí hậu. Năm 2010, Chính phủ đã thông qua quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội hệ thống đảo việt Nam đến năm 2020.
 
Đối với các cụm đảo nhỏ, đảo hoang sơ (không có dân) thì phát triển kinh tế đảo gắn với bảo tồn thiên nhiên, du lịch sinh thái biển đảo (bao gồm du lịch lặn)...Đối với các đảo/cụm đảo lớn, đông dân như Phú Quốc, Vân Đồn, Côn Đảo, Cát Bà, Lý Sơn...thì xây dựng thành các trung tâm kinh tế hải đảo toàn diện, có bán kính ảnh hưởng rộng ra vùng xung quanh và là những cực phát triển “tiếp nối” quan trọng với dải ven biển trong bình đồ tổ chức không gian biển.
 
Các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
 
Nước ta có các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia: nội thủy, lãnh hải, vùng biển tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chúng thuộc về các mảng không gian biển khơi, vịnh, vùng biển ven bờ (vùng ven bờ) và nhỏ hơn là các mảng không gian của các vũng biển ven bờ (bay),…với các đặc trưng và tiềm năng phát triển khác nhau.
 
Trên biển đã xác định sơ bộ 6 vùng đa dạng sinh học, 12 ngư trường quan trọng đối với nghề cá, 9 cụm biển-đảo cần ưu tiên bảo tồn và 16 khu bảo tồn biển đến năm 2010 được Chính phủ phê duyệt quy hoạch năm 2010 (chiếm 0,3% diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế, khoảng 70.000 ha rạn san hô, 20.000 ha cỏ biển, một phần rừng ngập mặn, phần lớn các bãi giống, bãi đẻ của các loài sống ở vùng biển ven bờ và khoảng 100 loài quý hiếm sẽ được bảo vệ nghiêm ngặt trong hệ thống 15 khu bảo tồn biển này).
 
Vùng biển khơi rộng lớn ở phía ngoài là không gian phát triển các hoạt động hàng hải và khai thác dầu khí ở thềm lục địa, đồng thời sẽ là nơi diễn ra các hoạt động hợp tác và hội nhập kinh tế biển sôi động hơn khi nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Biển là cửa mở của quốc gia để giao lưu quốc tế, nhưng vẫn cần chủ động “mở cửa” để hội nhập quốc tể trên biển, để góp phần xây dựng Biển Đông thành “khu vực biển hoà bình” và để tăng cường lợi ích quốc gia trên biển. Vùng biển này cũng là không gian phát triển của nghề cá đa loài với đặc trưng nổi bật nhất là quanh năm đều có cá đẻ (th­ường tập trung vào thời kỳ từ tháng 3 đến tháng 7) và thư­ờng phân đàn không lớn. Đây là nơi phát triển nghề đánh bắt hải sản với số lượng tàu thuyền khá lớn (trên 90.000 chiếc) và hàng ngày có khoảng 10.000 tàu thuyền đánh cá của ngư dân ta trên biển. Cho nên ngư dân là lực lượng không thể thiếu vừa làm kinh tế vừa góp phần bảo vệ an ninh vùng biển tổ quốc.
 
Nếu như trên đất liền khả năng canh tác chỉ đạt đến độ sâu khoảng 1,5m (đối với cây có củ), thì ở dưới biển con người có thể nuôi hải sản trong lồng đến độ sâu hơn 50m. Nhìn từ giác độ như vậy thì tiềm năng nuôi thuỷ sản ở biển nước ta còn khá lớn, nhưng xuất đầu tư cần phải cao hơn mức hiện nay. Sắp tới có thể tận dụng không gian biển trong phạm vi các công trình giàn khoan dầu khí, các công trình biển khác để xúc tiến nuôi cá biển lồng bè. Bên cạnh đó, cần nắm vững đặc trưng của các “yếu tố đại dương” trong Biển Đông và quy luật ảnh hưởng của nó vào vùng biển thềm lục địa Việt Nam để tận dụng phát triển nghề đánh bắt một số loài đặc sản di cư theo mùa vào vùng biển nước ta, như cá Ngừ đại dương...Phát triển không gian kinh tế biển phải gắn chặt với kinh tế hải đảo và các trung tâm kinh tế ở vùng ven biển. Ngoài ra, có thể đ­ưa trên 500.000 ha mặt nước vùng biển ven bờ vào phát triển NTTS. Thời gian qua, hoạt động khai thác thuỷ sản ở vùng biển ven bờ và thềm lục địa chiếm khoảng 80% lượng thuỷ sản khai thác toàn quốc.
 
Vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia
 
Mặc dù rất giầu tiềm năng và đa dạng loại hình phát triển, nhưng hoạt động kinh tế biển nước ta vẫn loanh quanh và bó hẹp ở “ao nhà”, chưa tham gia hoặc mở rộng hoạt động ra khỏi vùng biển quyền tài phán quốc gia và tiến ra “biển lớn”. Không thể có nền kinh tế biển hiệu quả và mạnh (tính cạnh tranh cao) nếu bỏ qua yếu tố “dịch vụ quốc tế” nói chung thông qua các tập đoàn kinh tế đại dương mạnh và hoạt động dịch vụ của từng ngành/lĩnh vực kinh tế biển nói riêng. Trên thế giới, giá trị dịch vụ ngoài vùng đặc quyền kinh tế quốc gia (vùng biển quốc tế, hoạt động viễn dương và khai thác đại dương...) chiếm thị phần rất quan trọng, nếu chưa muốn nói là quyết định.
 
Xu thế phát triển như vậy sẽ góp phần giảm mức độ khai thác sử dụng tài nguyên biển ở dạng “thô, tươi sống” trong vùng biển quốc gia, bảo đảm được an ninh năng lượng và thực phẩm của quốc gia, góp phần phát triển biển bền vững. Trong bối cảnh nước ta đã chính thức bước vào “sân chơi quốc tế” thì cũng phải chuẩn bị đội hình và công nghệ để sớm tham gia hưởng lợi từ không gian đại dương, “lấy đại dương nuôi đất liền”. Chính sách biển nước ta một mặt phải có tác động điều chỉnh hành vi phát triển của các ngành kinh tế biển, tạo ra một trật tự pháp lý ổn định trên vùng biển quốc gia, mặt khác phải hỗ trợ khả năng hội nhập quốc tế, trước hết phải phù hợp với tinh thần của Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển 1982.
 
Nhu cầu quy hoạch không gian biển
 
Như trên đã nói, trên bình đồ tổ chức không gian biển hiện nay đã có: ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia (2 tam giác kinh tế và một hành lang kinh tế), 15 khu kinh tế ven biển gắn với hệ thống cảng biển nước sâu, một số đảo bước đầu được xác định phát triển thành các trung tâm kinh tế hải đảo trong tương lai, cùng với các trung tâm du lịch ven biển,...Tuy nhiên, do đầu tư dàn trải nên vẫn chưa xác định rõ các cực phát triển “tiên phong” và thiếu các tuyến lực đủ mạnh ở ven biển để tọa mối liên kết vùng. Trong khi, dọc ven biển phía bắc vịnh Bắc Bộ và tỉnh Hải Nam thuộc Trung Quốc đã hình thành các cực phát triển rất mạnh, đặc biệt là đảo Hải Nam, với bán kính ảnh hưởng (dự kiến đến năm 2020) ra toàn vùng Biển Đông và các nước bắc ASEAN. Ở phía nam, với chủ trương tăng cường hội nhập nội khối, ASEAN bắt đầu mở rộng và hoàn thiện hệ thống giao thương xuyên ASEAN để gia tăng ảnh hưởng vào khu vực Biển Đông,...
 
Trong bối cảnh như vậy, bên cạnh việc lựa chọn đầu tư cho một số trung tâm hướng biển mới, Việt Nam nên chú trọng tận dụng các đô thị lớn ven biển đã được thời gian thử thách theo mô hình “đô thị-cảng-biển” như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu,…Cần đầu tư cho các đô thị này cùng với một số trung tâm kinh tế hướng biển được chọn lựa để xây dựng không chỉ thành các cực phát triển mạnh ở dải ven biển mà còn là các cực đối trọng chính của các cực nói trên trong khu vực Biển Đông. Được như vậy thì đến năm 2020, các mảng không gian biển của nước ta sẽ trở thành một trong những khu vực biển phát triển năng động trên thế giới.
 
Trên cơ sở bình đồ tổ chức không gian biển-ven biển, cần tiến hành quy hoạch không gian cho từng khu vực biển, vùng ven biển và cụm đảo cụ thể. Thông qua tính toán đầy đủ các nguồn lực (nội lực, ngoại lực), đặc biệt là các giá trị sinh thái của vùng quy hoạch, xác định thế mạnh phát triển, hiện trạng khai thác, sử dụng vùng biển theo không gian và thời gian, quy hoạch không gian biển sẽ phân bổ không gian theo lộ trình thời gian cho các hoạt động của con người trong vùng quy hoạch để đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội và sinh thái.
 
Trên cơ sở quy hoạch sử dụng không gian, cần tiến hành xác định “chế độ pháp lý” cho các mảng không gian phân chia cho các ngành, người sử dụng để bảo đảm mức độ tuân thủ quy hoạch cao nhất, để giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng đa ngành và tối ưu hóa lợi ích kinh tế trong khi vẫn bảo toàn được chức năng sinh thái và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững ở vùng quy hoạch.
 
(Trích báo cáo tại Diễn đàn Kinh tế Biển 2012 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)
 
 

Lượt xem : 2847