Vietnamese English
Mối nguy hiểm của ô nhiễm bụi ở các thành phố Việt Nam và đề xuất giải pháp giảm thiểu

9/20/2018 10:27:00 AM

(VACNE) - Trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài viết của GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ TN&MT Việt Nam trên Tạp chí KH & CN VN của Bộ KH &CN.

MỐI NGUY HIỂM CỦA Ô NHIỄM BỤI Ở CÁC THÀNH PHỐ VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU

 GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng


The Hazard of Dust Pollution in Cities of Vietnam and propose Measures for Reduction
Prof. Dr. of Sc. Pham Ngoc Dang

 

 

Con người bình thường có thể nhịn ăn từ 7-10 ngày, nhịn uống 2-3 ngày, nhưng chỉ cần nhịn thở 2-3 phút là có thể tử vong.  Con người hít thở trực tiếp không khí bị ô nhiễm rất có hại đối với sức khỏe con người, gây thiệt hại kinh tế và làm giảm sức hút du lịch.

Tác hại của bụi

Tác hại của bụi phụ thuộc vào tính chất vật lý và hóa học của bụi, nồng độ bụi (càng lớn càng nguy hiểm), kích thước hạt bụi, hạt bụi càng nhỏ càng độc hại (PM10, PM5, PM2.5), thời gian tiếp xúc (càng dài càng nguy hại) và khả năng đáp ứng của cá nhân.

+ Bụi vào phổi gây kích thích cơ học, xơ hóa phổi, dẫn đến các bệnh về hô hấp (ho, hen, viêm họng, viêm phổi, viêm phế quản, v.v...)

+ Bụi có thể gây các bệnh ở mắt, da, bệnh đường máu và các hệ thống khác của cơ thể (bụi vào cơ thể tan trong máu và các dịch cơ thể), gây trầm trọng thêm về bệnh tim mạch…

+ Bụi có thể gây bệnh ung thư phổi, bệnh bụi phổi silic: nếu bụi chứa thành phần độc hại, như bụi amiang, bụi chì, bụi silic, bụi than, bụi xi măng, muội khói ống xả xe ôtô chạy dầu, bụi Hydrocarbon,…

Theo kết quả điều tra khảo sát của Cục Y tế, Bộ Giao thông Vận tải, năm 2011 tổng chi phí khám, chữa các bệnh về đường hô hấp, cũng như thiệt hại thu nhập do nghỉ ốm và nghỉ việc để chăm sóc người già, trẻ em bị mắc các bệnh do ô nhiễm không khí (chưa tính đến thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí gây bệnh ung thư phổi và chết non), tính bình quân đối với người dân nội thành của Hà Nội mỗi ngày là 1.538 đồng/người. Từ đó, có thể ước tính tổng thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí gây ra bệnh đường hô hấp ở Hà Nội (tính với khoảng 2,5 triệu dân nội thành) là khoảng 66,83 triệu USD/năm. Tương tự, thiệt hại kinh tế tính bình quân đối với người dân nội thành TP Hồ Chí Minh mỗi ngày là 729 đồng/người và ước tính với 5,6 triệu dân nội thành là 70,96 triệu đô la Mỹ/năm.  Theo Báo cáo của Tổng cục Du lịch, khách du lịch quốc tế rất thích đi tham quan các làng nghề truyền thống của các tỉnh/thành, nhưng họ đều không muốn trở lại lần thứ 2, thứ 3 vì sợ ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm không khí. 

Chỉ số đánh giá chất lượng không khí (AQI)

Để đánh giá mức độ ô nhiễm không khí các quốc gia thường dùng chỉ số AQI. Chỉ số AQI là số lần nồng độ chất ô nhiễm thực tế (thí dụ là 100 µg/m3) lớn hơn trị số nồng độ ô nhiễm quy chuẩn cho phép (đối với bụi trung bình năm là 50 µg/m3) nhân với trị số 100, có nghĩa là đối với trường hợp thí dụ này chỉ số AQI = (100/50) x 100 = 200. Chỉ số AQI được phân thành 2 loại: Chỉ số AQI đơn lẻ, dùng để đánh giá mức độ ô nhiễm đối với từng chất ô nhiễm không khí, ký hiệu là AQIi; Chỉ số AQI0, dùng để đánh giá chung về ô nhiễm môi trường không khí của địa phương, là trị số trung bình cộng của các AQIi đơn lẻ.

Mức độ ô nhiễm không khí thường được chia thành 5 mức: tốt (AQI = 0 - 50), không bị ô nhiễm (AQI = 51 - 100), ô nhiễm nhẹ (AQI = 101 - 200), ô nhiễm nặng (AQI = 201 - 300), và ô nhiễm rất nặng (AQI > 300).

Đánh giá thực trạng ô nhiễm bụi ở các đô thị lớn của nước ta

Số liệu quan trắc bụi PM10 của một số trạm quan trắc không khí tự động tại một số đô thị lớn của Việt Nam trong giai đoạn 2011- 2015 được thể hiện trên Biểu đồ 1 [1].   

                        * Ghi chú: số liệu cập nhật đến hết tháng 9/2015. 

        Biểu đồ 1. Diễn biến nồng độ bụi PM10 trung bình năm tại một số trạm quan trắc

                         tự động, liên tục giai đoạn 2011-2015.   Nguồn: [ 1 ]

Từ biểu đồ 1 ta thấy chỉ số AQI đối với bụi PM10 ở Hà Nội là lớn nhất so với các TP: Đà Nẵng, Việt Trì, Hạ Long, Huế, Nha Trang, năm 2011 Hà Nội có AQIbụi = 116/50 x 100 = 232, là năm có ô nhiễm bụi lớn nhất, ở mức “ô nhiễm nặng”, nhưng năm 2015, AQIbụi = 73/50 x 100 = 146, Hà Nội bị ô nhiễm bụi ở mức ô nhiễm nhẹ, tức là chất lượng không khí Hà Nội đã được cải thiện đôi chút. Trong các TP nêu trên, không khí TP Đà Nẵng thuộc loại không bị ô nhiễm và trong sạch nhất.

Vì vậy rất nhiều Tổ chức Môi trường Quốc tế đánh giá “TP Hà Nội là 1 trong 10 thành phố bị ô nhiễm không khí lớn nhất trên thế giới”. 

Chúng tôi cho rằng đánh giá trên là chưa hoàn toàn chính xác, đúng ra là “Hà Nội là 1 trong 10 thành phố bị ô nhiễm bụi lớn nhất trên thế giới”, nhưng không phải là “1 trong 10 thành phố bị ô nhiễm không khí lớn nhất trên thế giới”. Bởi vì số liệu quan trắc chất lượng không khí tự động liên tục ở các đô thị Việt Nam trong các năm từ 2011 – 2015 [1] cho thấy, chỉ có ô nhiễm bụi là nặng nhất, vượt trị số quy chuẩn cho phép, còn các loại khí ô nhiễm trong không khí như là các khí NO2 và VOC (chủ yếu từ động cơ của các phương tiện giao thông vận tải phát thải ra) thì chỉ có dấu hiệu bị ô nhiễm nhẹ ở một số đô thị lớn, như là ở TP. Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh và Hạ Long, còn ở các TP trung bình và nhỏ thì hầu như chưa bị ô nhiễm. Các giá trị quan trắc nồng độ các khí SO2 và CO thu được từ phần lớn các trạm quan trắc không khí tự động ở các đô thị vẫn thấp hơn giới hạn cho phép trong QCVN 05:2013, có nghĩa là môi trường không khí của nước ta chỉ bị ô nhiễm bụi nặng và rất nặng, còn hầu như chưa bị ô nhiễm về các khí thải độc hại.

Đại Sứ quán Mỹ ở Hà Nội đã nhiều lần công bố trị số quan trắc bụi PM5.0, PM2,5 ở Sứ quán Mỹ tại TP Hà Nội vào một số giờ cao điểm giao thông trong ngày đạt tới trên 380µg/m3, tức là vượt trị số quy chuẩn cho phép trung bình năm tới 7,6 lần (380µg/m3/ 50µg/m3), thuộc mức ô nhiễm rất nặng, rất nguy hiểm.

Từ số liệu quan trắc bụi tự động ở Đại Sứ quán Mỹ tại TP Hà Nội công bố như trên mà các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta đã đưa tin ô nhiễm không khí của Hà Nội là rất trầm trọng, rất nguy hiểm, giống như ô nhiễm không khí ở TP. Bắc Kinh, Trung Quốc, vào mùa đông quá lạnh phải đốt lò đun nước nóng bằng than để sưởi ấm khắp nơi.  

Chúng tôi cho rằng: Đây là một thông tin đánh giá ô nhiễm không khí ở Hà Nội chưa chính xác. Bởi vì trị số nồng độ bụi PM5.0,  PM2,5 đo được ở Sứ quán Mỹ chỉ là trị số cực hạn đột xuất ở 1 thời điểm bất thường, không phải là trị số trung bình ngày (trung bình 24 giờ) nên không thể được xem là trị số đại diện để đánh giá mức độ ô nhiễm không khí ngày hôm đó, càng không phải là trị số trung bình năm nên không thể là căn cứ để đánh giá ô nhiễm thường xuyên của Hà Nội. Thông lệ, trên thế giới cũng như ở nước ta, để đánh giá mức độ ô nhiễm của một địa phương vào một ngày cụ thể nào đó thì phải lấy trị số trung bình đo của 24 giờ liên tục trong ngày đó làm đại diện; để đánh giá mức độ ô nhiễm trong năm thì phải căn cứ vào trị số trung bình đo của cả năm liên tục (365 ngày x 24 giờ đo) làm trị số đại diện, không thể lấy trị số đo tức thời bất thường ở một thời điểm nào đó làm trị số đại diện để đánh giá mức độ ô nhiễm không khí nói chung cho toàn thành phố được. Thậm chí, dù giả thiết rằng, trị số PM5.0, PM2,5 đo được tại Đại Sứ quán Mỹ đó là trị số trung bình ngày chẳng hạn, thì trị số AQI trung bình ngày hôm đó cũng chỉ = 383µg/m3:150µg/m3 x 100 = 255, có nghĩa là ô nhiễm bụi ở Hà Nội cũng chỉ ở mức độ “ô nhiễm nặng” chứ không phải ở mức độ “ô nhiễm rất nặng, ô nhiễm nguy hiểm” như các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên.  

Đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí (đặc biệt là ô nhiễm bụi) ở các thành phố nước ta: Trước hết, cần phải xác định các nguyên nhân ô nhiễm không khí (đặc biệt là ô nhiễm nặng về bụi) ở các thành phố của nước ta, đó là:

1.      Công tác quản lý môi trường không khí ở các thành phố nước ta còn yếu kếm, còn bắt cập với tình hình bức súc ô nhiễm thực tế;

2.      Nguồn gây ô nhiễm không khí, đặc biệt là nguồn phát thải các loại bụi từ các hoạt động xây dựng (xây dựng mới và sửa chữa nâng cấp các nhà cửa, các khu đô thị, các công trình giao thông cầu đường, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống cấp điện, hệ thống thông tin đô thị, v.v... ) được diễn ra rất mạnh mẽ và tràn lan ở khắp nơi;

3.      Bụi và các chất ô nhiễm không khí phát ra từ sự rơi vãi, phát tán do các phương tiện giao thông hoạt động vận chuyển nguyên vật liệu, đất cát... diễn ra ở khắp nơi trong thành phố, đặc biệt là các hoạt động vận chuyển đất cát,... vào ban đêm;

4.      Tình trạng vệ sinh môi trường đô thị ở nước ta rất kém, đường xá và hè phố còn bẩn, rác thải chưa được thu gom và xử lý đúng kỹ thuật100%, khi xe đi qua hoặc gió cuốn bay bụi đường phố lan tỏa khắp nơi;

5.      Ô nhiễm mùi hôi là do các khí mê tan, H2S, NH3, VOC, bốc lên từ các miệng hố gas, cống rãnh, từ nước sông, hồ bị ô nhiễm rất nặng, từ các chất thải hữu cơ thối rữa bay lên.

Vì vậy, chúng tôi đề xuất [2] một số giải pháp chủ yếu, có tính cấp bách nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí, đặc biệt là ô nhiễm bụi ở các thành phố nước ta như sau:

- Một là, tăng cường năng lực quản lý môi trường không khí (QLMTKK), như thành lập phòng QLMTKK, bổ sung cán bộ chuyên môn được đào tạo đúng chuyên ngành môi trường không khí ở các phòng, sở TN&MT ở các địa phương, tổ chức tập huấn kiến thức nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ về QLMTKK; hoàn thiện các văn bản pháp luật, các quy định, qui chế về quản lý môi trường ở các thành phố; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra môi trường, xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm môi trường;

- Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các quy định BVMT không khí; huy động sự tham gia tích cực của cộng đồng, người dân, cơ sở sản xuất, tổ chức xã hội trong công tác BVMT không khí nói riêng và BVMT TP nói chung, làm cho người dân ở các thành phố tự giác, chủ động giữ gìn vệ sinh môi trường, đấu tranh với các hành động gây ô nhiễm môi trường không khí ở các thành phố;

- Ba là, tập trung kiểm soát, kiểm tra và xử lý nghiêm ngặt các nguồn thải ô nhiễm bụi phát sinh từ các hoạt động xây dựng và sửa chữa nhà cửa, đường xá, cầu cống, hệ thống cống rãnh đô thị... 

- Bốn là, tăng cường kiểm tra, kiểm soát các nguồn thải bụi phát sinh từ hoạt động chuyên chở nguyên vật liệu, chất thải, đặc biệt là chuyên chở nguyên vật liệu, chất thải về ban đêm;

- Năm là, tiến hành kiểm tra định kỳ theo quy định của quy chuẩn môi trường về khí thải (EURO2, EURO3, EURO4) đối với tất cả các phương tiện giao thông cơ giới (các loại xe ô tô, đặc biệt là các loại xe buýt, xe tải, xe ô tô chạy dầu, các mô tô, xe máy cũ), cấm lưu hành đối với các xe không đáp ứng yêu cầu về BVMT theo các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đã quy định;

- Sáu là, thực hiện thu gom, vận chuyển và xử lý đúng kỹ thuật vệ sinh 100% rác thải đô thị; thường xuyên quét dọn đường xá và vỉa hè, bảo đảm đường phố luôn luôn sạch sẽ; Tiến hành phun nước rửa đường vào các ngày trời nắng hanh khô;

              

                             Tình trạng kẹt xe trong giờ cao điểm ở Hà Nội

       (Nguồn: https://www.google.com.vn/search?q=Các+hình+ảnh+kẹt+xe+ở+Hà+Nội)

- Bảy là, về lâu dài, cần phát triển hệ thống giao thông công cộng, đảm bảo thuận lợi phục vụ người dân đi lại, giảm thiểu số lượng xe máy và ô tô cá nhân hoạt động trên đường phố;

- Tám là, áp dụng các biện pháp kỹ thuật xử lý bụi và khí thải phát sinh từ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp bên trong và xung quanh thành phố; Khuyến khích các hộ gia đình và cửa hàng ăn uống từ bỏ đun nấu bằng than tổ ong, phát triển đun nấu bằng khí gas, hoặc bằng các viên nhiên liệu mùn cưa hay sinh khối; Xử lý triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường nước mặt ở tất cả các sông, hồ nội thành;

- Chín là, phát triển trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh công cộng trong TP, khuyến khích phát triển các loại cây xanh bên trong các công trình (cây xanh ban công, hành lang, mặt tường, mặt mái các công trình).

- Mười là, ưu tiên đầu tư hoàn thiện hệ thống quan trắc môi trường không khí, đặc biệt là hệ thống quan trắc không khí tự động cố định.

 

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Báo cáo “Hiện trạng môi trường quốc gia 2016- Chuyên đề Môi trường Đô thị”.

2. Phạm Ngọc Đăng. Đánh giá mức độ ô nhiễm không khí ở Hà Nội và đề xuất một số giải pháp giảm thiểu. Tạp chí Môi trường,  số 3 năm 2016.

 

 

Lượt xem : 2038