Hếp - Cây thuốc ở Trường Sa
12/15/2020 10:03:00 AM
(VACNE) - Trường Sa hôm nay không chỉ có cát trắng, sỏi đá với san hô và vị mặn mòi của biển, mà còn có màu xanh của cây lá. Ngoài những luống rau xanh để cải thiện đời sống cho quân đội trên đảo, những cây Bàng vuông đứng hiên ngang trước sóng gió, mà còn có nhiều loài cây đặc trưng của vùng đất cát ven biển, trong đó có những cây đã được đặt tên là ‘Phong ba’ (Heliotropium foertherianum Diane et Hilger, họ Vòi voi - Boraginaceae), và cây Hếp, hay ‘Bão táp’ (Scaevola taccada (Gaertn.) Roxb., họ Hếp - Goodeniaceae).
Rất nhiều người nhầm ‘Bão táp’ và ‘Phong ba’ là tên của cùng một loài cây, nhưng đó là 2 loài khác nhau. Do cây có sức sống dẻo dai, chịu được gió mặn, sóng biển và sự khắc nghiệt giữa trời nước mênh mông, nên các nhà khoa học đã đặt cho cây Hếp một cái tên biểu tượng cho sự kiên cường là ‘Bão táp’.
‘Bão táp’ chính là cây Hếp, một loại cây bụi cao tới 2-3m, cành mập tròn, mang nhiều sẹo lá, có những túm lông tơ trắng ở các nách lá. Lá to mọng nước, hình mũi mác, dài 10-20cm, rộng 3,5-8cm, màu xanh bóng trông mát mắt, nhẵn hay có lông mịn, mọc so le sít nhau ở các đầu cành. Cụm hoa là những xim nhỏ, ngắn ở nách lá, ngắn hơn lá nhiều. Hoa Hếp xinh xinh, tràng hợp, phía trên có môi với 5 thùy xòe ra một phía như cái quạt nhỏ (tiếng Anh gọi là Fan flower), khi mới nở màu trắng, rồi từ từ ngả sang màu vàng nhạt và vàng sẫm. Quả hình trứng hay gần hình cầu, đường kính 8-15mm, chứa 2 hạt. Ra hoa gần như quanh năm.
Hình 1: Cây Hếp (nguồn: Internet)
Hình 2: Quả Hếp (nguồn: T.C. Khánh)
Cây Hếp mọc ở vùng đất cát dựa biển dọc nước ta, trên bờ các đầm lầy nước mặn và các đảo như Ba Mùn (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù lao Chàm (Quảng Nam), Trường Sa (Khánh Hoà), Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), đến Thổ Chu, Hòn Thơm (Kiên Giang). Cây này cũng được trồng làm cảnh ở các khu nhà nghỉ dưỡng dọc ven biển Miền Trung. Trồng bằng hạt hoặc giâm cành.
Ngoài ra, cây Hếp còn phân bố ở phía Nam Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Madagasca và các nước ở Đông Nam Châu Á.
Ở nước ta, cây Hếp chưa được dùng làm thuốc, nhưng theo tài liệu nước ngoài thì lá Hếp chứa các chất saponin, coumarin và 2 ancaloid, trong đó có scaevolin. Dịch chiết từ lá có tác dụng chống virus herpes simplex 1 và 2.
Theo Y học cổ truyền của nhiều nước ở Châu Á và Polynesia thì các bộ phận của cây Hếp đã được sử dụng làm thuốc. Nó được coi như "một phương thuốc tuyệt vời chữa đái tháo đường, hạ sốt, chống viêm, chống đông máu và làm giãn cơ xương mà không có bất kỳ tác dụng phụ nào”. Đó là đánh giá của khoa Dược thuộc Đại học Annamalai (Ấn Độ).
Lá Hếp có vị đắng. Ở Malaysia, người ta dùng để ăn chữa chứng khó tiêu và trị tiêu chảy; nhai lá non để làm dịu ho và có thể phơi khô để hút như thuốc lá. Lá tươi đắp chữa đau đầu và các bệnh ngoài da. Ở Philippin và Indonesia dùng nước sắc lá và rễ Hếp để chữa bệnh phù thũng. Nước ép thân non và quả chín dùng để bôi trực tiếp lên các vết thương ngoài da do côn trùng. Đặc biệt, rễ Hếp còn được dùng như một thứ thuốc giải độc khi ăn phải cá độc.
Ngoài tác dụng làm thuốc, người dân ở Maldives (một quốc đảo san hô ở Ấn Độ Dương) đã sử dụng lá Hếp như một loại thực phẩm chống đói. Một số đảo ở Thái Bình Dương đã trồng cây Hếp để ngăn chặn xói lở bờ biển và bảo vệ cây trồng không bị nước mặn của sóng biển.
Các công dụng nói trên của cây Hếp khá đa dạng. Theo kinh nghiệm của nước ngoài thì cây này dễ trồng và có nhiều công dụng làm thuốc đáng chú ý. Các nhà khoa học nước ta cũng nên quan tâm nghiên cứu để kiểm chứng giá trị chữa bệnh của nó. Đặc biệt, các đơn vị quân dân y ở vùng biển hay ngoài đảo xa có thể áp dụng khi cần thiết.
TSKH. Trần Công Khánh
Lượt xem : 2298