Vietnamese English
Diễn biến môi trường trong bối cảnh bùng phát quy hoạch phát triển và mở rộng Hà Nội 15 năm qua và đề xuất các giả pháp cải thiện

DIỄN BIẾN MÔI TRƯỜNG TRONG BỐI CẢNH BÙNG PHÁT QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN VÀ MỞ RỘNG HÀ NỘI 15 NĂM QUA VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP CẢI THIỆN

 

DIỄN BIẾN MÔI TRƯỜNG TRONG BỐI CẢNH  BÙNG PHÁT QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN VÀ MỞ RỘNG HÀ NỘI 15 NĂM QUA VÀ             ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP CẢI THIỆN

GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng, PCT VACNE

Trong bài báo này chúng tôi lựa chọn chỉ bàn đến ô nhiễm 3 thành phần môi trường chính: Môi trường không khí, môi trường nước mặt và chất thải rắn, trong quy hoạch phát triển Hầ Nội rất nhanh chóng, bùng phát trong thời gian 15-20 năm qua.  Đó là những thành phần môi trường quan trọng nhất, có tác động trực tiếp và nguy hiểm đối với sức khỏe cộng đồng, ảnh hưởng xấu đến phát triển ngành du lịch, ảnh hưởng đến kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế. Ở đây, chúng tôi chưa bàn đến các thành phần môi trường khác, như môi trường đất, môi trường nước ngầm, môi trường tiếng ồn, môi trường chiếu sáng, môi trường phóng xạ và đa dạng sinh học của thành phố Hà Nội.

Để đánh giá một cách công bằng và khách quan về diễn biến ô nhiễm môi trường Hà Nội nặng hay nhẹ, công tác BVMT tốt hay yếu kém cần phải xét đến bối cảnh quy hoạch mở rộng thành phố Hà Nội rất nhanh như “Phù Đổng Thiên Vương” trong vòng 40-50 năm qua, bởi vì quy hoạch mở rộng Hà Nội quá nhanh đã tạo ra các nguồn thải ô nhiễm môi trường cực lớn, vượt trên khả năng tự làm sạch của môi trường tự nhiên nhiều lần và cũng vượt quá nhiều lần khả năng đầu tư công nghệ xử lý nhân tạo đối với ô nhiễm môi trường. Tạo ra xu thế suy thoái môi trường khó lường và không dễ ngăn ngừa.

1. Quy hoạch phát triển Hà Nội bùng phát đã tạo ra các nguồn thải ô nhiễm môi trường vô cùng lớn và vượt quá khả năng kiểm soát

    https://img.iproperty.com.my/angel-legacy-bds/750x1000-fit/2022/08/23/JGcIp0rf/20220823174427-838a.jpg

Hình 1. Khu đô thị Royal City, Hà Nội, được xây dựng trên khu đất của nhà máy Cơ khí Hà Nội đã được di chuyển ra ngoại thành

-  Trong thời kỳ Pháp thuộc, với vai trò là Thủ phủ của Liên bang Đông Dương, Hà Nội đã thu hút một lượng đáng kể người Pháp, người Hoa và người Việt từ những vùng lân cậ đến nhập cư. Vào năm 1940, dân số thành phố được thống kê là 132.145 người, nhưng đến năm 1954 thì giảm xuống chỉ còn 53.000 dân với diện tích 152 km². Đến năm 1961 Hà Nội sáp nhập thêm một số xã của Hà ĐôngBắc NinhVĩnh Phúc và Hưng Yên, thành phố mở rộng diện tích lên 584 km² với dân số 910.000 người.   Ngày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba VìThạch ThấtPhúc ThọĐan PhượngHoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê LinhSóc Sơn. Dân số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người, với diện tích đất tự nhiên là 2.136 km².  Ngày 12 tháng 8 năm 1991, ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, chuyển lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập lại vào tỉnh Vĩnh Phúc. Hà Nội còn lại 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km². Ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội Việt Nam thông qua nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1 tháng 8 cùng năm. Theo Nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã Đông XuânTiến XuânYên BìnhYên Trung thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được sáp nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km² và dân số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Theo kết quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số toàn Hà Nội là 6.451.909 người.  Tính đến hết năm 2015, dân số Hà Nội là 7.558.956 người. Theo con số thống kê, dân số của thành phố Hà Nội năm 2020 là khoảng 8,3 triệu người, năm 2021 là khoảng 8,34 triệu người và năm 2022 là khoảng 8,4 triệu người. Tính đến hết quý I năm 2023, dân số của Thủ đô sẽ đạt khoảng 8,5 triệu người, nếu cộng thêm số người từ nông thôn ra Hà Nội học tập và lao động kiếm sống, cùng với dân sống vãng lai ước tinh tổng dân số sống ở Hà Nội hiện nay đã vượt quá con số 10 triệu người, Hà Nội đã gia nhập nhóm các đô thị lớn của thế giới. Như vậy dân số Hà Nội năm 2023 sau 55 năm đã cao hơn dân số năm 1968 tới 10 lần và sau 45 năm đã cao hơn dân số năm 1978 tới 4 lần.

- Về gia tăng chất thải rắn (CTR) theo cấp số nhân so với gia tăng dân số: Tổng nguồn chất thải rắn đô thị phát sinh không chỉ phụ thuộc vào gia tăng dân số mà còn phụ thuộc vào mức sống của người dân. Khi mức sồng còn nghèo khó thì người ta thường sử dụng cả rau già hay kém chất lượng, quần áo cũ hỏng thì sửa chữa để tiếp tục sử dụng, hoặc mua hàng “secon hand” sử dụng, mỗi ngày mỗi người dân chỉ thải khoảng 0,4 - 0,5 kg CTR. Ngày nay người dân đã có mức sống cao hơn, ăn rau thì chỉ chọn rau non, chất lượng cao, thải bỏ tất cả các rau già, kém chất lượng, quần áo, đồ dùng cá nhân dù còn dùng được nhưng “mất mốt”, không hợp thời trang cũng đều thải bỏ. Vì vậy lượng CTR thải ra đã tăng lên từ 1,5 kg đến 2,0 kg mỗi người mỗi ngày, gấp 4 lần trước đây.   Từ số liệu gia tăng dân số và thay đổi mức sống, ta có thể tính ra sự gia tăng tổng nguồn thải CTR của Hà Nội ngày nay (2023) gấp 16 lần so với năm 2078, gấp 40 lần so với năm 1968. Thực tế số liệu tổng lượng CTR phát sinh ở Hà Nội mỗi ngày hiện nay là khoảng 9.000 tấn.

- Phương tiện giao thông cơ giới gia tăng như vũ bão:  Trước năm 1975 người dân Hà Nội đi lại bằng phương tiện xe đạp là chủ yếu, ngày nay người dân Hà Nội đi lại chủ yếu bằng phương tiện xe máy và ô tô cá nhân. Theo số liệu thống kê hiện nay Hà Nội có khoảng 7 triệu xe máy và khoảng 1,1 triệu xe ô tô các loại. Rất nhiều người sở hữu 2 xe máy hoặc vừa có xe máy vừa có xe ô tô riêng. Dù rằng hệ thống giao thông đường bộ của Hà Nội trong những năm qua đã được cải tạo nâng cấp và xây dựng mới rất nhiều. Đã xây dựng xong đường vành đai 1, đường vành đai 2, đường vành đai 3, đang xây dựng đường vành đai 4, và dự kiến khởi công xây dựng đường vành đai 5 vào năm 2025. Dù vậy vẫn chưa đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải thực tế, tắc nghẽn giao thông vẫn còn thường xuyên xảy ra và gây ra ô nhiễm môi trường không khí đáng kể đối với Hà Nội.

- Nguồn thải ô nhiễm từ các cơ sở sản xuất của Hà Nội cũng rất lớn và chưa kiểm soát được: Cho đến nay Hà Nội có 10 khu công nghiệp (KCN) mới, 9 khu công nghiệp cũ và 29 cụm công nghiệp (CCN).  Có khoảng 100% các KCN có các trạm xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường (TCMT), nhưng chỉ có khoảng 60% các CCN có các trạm xử lý nước thải tập trung. Gần như 100% các cơ sở sản xuất ở các KCN cũ và ở 24 CCN đều tồn tại các thiết bị và công nghệ sản xuất lạc hậu, thải ra nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường không khí, ô nhiễm môi trường nước và ô nhiễm về CTR.

2. Một số thành tựu nổi bật về BVMT của Hà Nội

      Trong vòng 30 năm qua, đặc biệt là 15 năm gần đây, Hà Nội đã đẩy mạnh các hoạt động BVMT nhằm ngăn chặn sự suy thoái môi trường theo sau sự phát triển quy hoạch đô thị bùng phát và từng bước cải thiện chất lượng môi trường sống của mọi người dân. Trong đó có thể nêu ra một số thành tựu đáng tự hào về công tác BVMT của Hà Nội như sau:

- Đã hoàn thành di chuyển 100% các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nằm xen kẽ trong các khu dân cư nội thành di chuyển ra ngoại thành (Hình 1);

- Về cơ bản đã cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện hiện đại hóa hệ thống giao thông đường bộ, tạo điều kiện cơ bản để giảm thiểu ô nhiễm môi trường do giao thông gây ra;

- Đã xây dựng và vận hành sử dụng 6 trạm xử lý nước thải sinh hoạt tập trung. 100% các KCN và khoảng 60% các cụm công nghiệp đã xây dựng xong và vận hành đạt TCMT các trạm xử lý nước thải tập trung. Đã xử lý được khoảng 30% tổng lượng nước thải của thành phố Hà Nội;

-  Đã duy trì ổn định việc thu gom và xử lý (chủ yếu là chôn lấp hợp vệ sinh môi trường) khoảng 85% - 90% tổng lượng CTR. Có một số khu đô đô thị thu gom và xử lý hợp vệ sinh 100% CTR phát sinh;

- Đã đầu tư xây dựng hoàn thành vào cuối năm 2023 2 nhà máy Điện Rác (đó là nhà máy Điện Rác Thiên lý ở Sóc Sơn với công suất đốt khoảng 5.000 tấn CTR ướt mỗi ngày, công suất phát điện là 75 MW (Hình 2), và nhà máy Điện Rác Seraphin ở Xuân Sơn với công suất đốt khoảng 1.500 tấn CTR mỗi ngày, công suất phát điện là 37 MW;

- Đã xóa sổ 96% số lượng bếp đun than tổ ong ở các gia đình trong thành phố và hầu như không để xảy ra hiện tượng đốt rơm rạ gây khói mù ở các xã ngoại thành vào mùa thu hoạch lúa;

- Đã xây dựng hoàn thiện và vận hành thường xuyên hệ thống quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí tự động trên phạm vi toàn thành phố.

3. Đánh giá tổng quát về diễn biến môi trường theo quy hoạch phát triển Hà Nội

        Như trên đã phân tích từ quy hoạch phát triển Hà Nội quá nhanh đã gây ra áp lực nguồn thải ô nhiễm môi trường vô cùng lớn, vượt quá khả năng chống đỡ, có thể gây ra suy thoái môi trường nặng đối với TP Hà Nội. Tuy vậy với nỗ lực và quyết tâm cao của Thành Ủy, Ủy ban Nhân dân, các tổ chức quản lý môi trường và tất cả các phường, xã, quận, huyện của Hà Nội, như là một số thành tựu trong hoạt động BVMT của Hà Nội đã đạt được nêu ở trên, đã đáp ứng ngăn chặn được sự suy thoái môi trường nghiêm trọng, tuy chất lượng môi trường Hà Nội ngày nay vẫn thuộc loại yếu kém, nói chung chưa đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường quy định, nhưng đã được cải thiện đôi chút so với 15 năm trước đây.

- Đánh giá diễn biến chất lượng môi trường không khí Hà Nội: Tuy rằng môi trường không khí Hà Nội vẫn chưa đạt Quy chuẩn môi trường, phần lớn thời gian trong năm thuộc loại ô nhiễm nhẹ và rất nhẹ, nhưng so với thời gian trước đây 15 năm chất lượng môi trường không khí Hà đã được cải thiện đáng kể. Cách đây khoảng 15 năm về trước các tổ chức và nhiều chuyên gia môi trường quốc tế thường đánh giả “môi trường không khí Hà Nội là 1 trong 10 đô thị bị ô nhiễm nhất trên thế giới”. Nhưng đến nay theo Báo cáo Môi trường không khí thế giới của UNEP năm 2022 (được trích dẫn ở Bảng 1 dưới đây) đã đánh giá chất lượng không khí Hà Nội ở mức thứ 30 trong 108 đô thị có số liệu trên thế giới. Chất lượng môi trường không khí Hà Nội còn tốt hơn chất lượng môi trường không khí của các thành phố (bảng 1): Delhi (bị ô nhiễm nhất thế giới, xếp ở thứ tự số 1), Tasken ( xếp thứ 7), Vũ Hán (xếp thứ 21), Quảng Châu (xếp thứ 23), Thượng Hải (xếp thứ 24). Thành phố Sydney (xếp thứ 108) là thành phố có chất lượng môi trường không khí tốt nhất trong 108 thành phố có số liệu của thế giới (bảng 1).

Bảng 1. Báo cáo của UNEP năm 2022  về xếp hạng ô nhiễm môi trường không khí                                 từ cao xuống thấp của 108 thành phố có số liệu trên thế giới

Tên thành phố

Thư tự xếp hạng

 

Tên thành phố

Thư tự xếp hạng

Delhi, Ấn độ (bị ô nhiễm nhất)

1

 

Bắc kinh

32

Tasken

7

 

TP Hồ Chí Minh

75

Vũ Hán

21

 

Băng Kok

81

Quảng Châu

23

 

Tokyo

86

Thượng Hải

24

 

Singapore

92

Hà Nội

30

 

Sydney (sạch nhất)

108

- Đánh giá diễn biến chất lượng môi trường nước mặt Hà Nội:

 Cách đây khoảng 15 năm môi trường nước mặt các sông hồ nội thành Hà Nội, như là sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Nhuệ, v.v…, các hồ Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ 3 mẫu, hồ 7 mẫu, v.v… đều bị ô nhiễm rất nặng. Nay nước mặt ở các sông hồ này tuy vẫn bị ô nhiễm, nhưng so với trước đây cũng đã giảm ô nhiễm hơn, chất lượng đã được cải thiện đôi chút. Tuy nhiên vẫn tồn tại có lúc có nơi nước các sông hồ nội thành Hà Nội vẫn bị ô nhiễm rất nặng. Như là trong tháng 11 năm 2023 vừa qua nước hồ Tây đã xẩy ra hiện tượng ô nhiễm cạn kiệt Oxy, dẫn đến tình trạng hàng tấn cá chết trôi nổi trên mặt hồ. Đã xây dựng 6 nhà máy xử lý nước thải sinh hoat tập trung, thời gian tới có kế hoạch xây dựng thêm 8 nhà máy nữa. Nói chung, các nhà máy xử lý nước mới được xây dựng đều hoạt động tốt, có hiệu quả rõ rệt, trừ nhà máy xử lý nước Yên Sở là nhà máy lơn nhất, nhưng có sai lầm đặt vị trí ở cuối dòng sông Kim Ngưu (cuối nguồn nước thải), nên hiệu quả xử lý nước thải thực tế rất kém.  Khó khăn và trở ngại lớn nhất đối với xử lý nước thải Hà Nội là hệ thống thoát nước của thành phố là hệ thống thoát nước chung (thoát nước thải lẫn lộn với thoát nước mưa).

- Đánh giá diễn biến môi trường CTR ở Hà Nội: Theo số liệu thống kê năm 1991 diện tích Hà Nội là 921,8 km2, dân số là 2.052 nghìn người, hiện nay diện tích Hà nội là 3.344.700 km2, dân số là khoảng 10 triệu người. Như vậy nay so với năm 1991 diện tích Hà Nội tăng lên 3,63 lần, dân số tăng lên 4,87 lần. Thế mà Hà Nôi đã vẫn duy trì được công tác thu gom rác đạt 85 -90%, còn lại khoảng 10% đến 15 % rác thải chưa được thu gom, bị vất ra sông hồ, kênh rạch và các bãi đất trống, gây ra ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước và làm giảm mỹ quan thành phố.   Việc thu gom CTR tại nguồn đã được Hà Nôi phát động áp dụng thí điểm nhiều lần , nhưng đều thất bại.

  

https://www.erav.vn/Images/Upload/User/ngocanh/2023/10/49243fc6088ae1d4b89b.jpg

Hình 2. Nhà máy Điện Rác Thiên Lý, Sóc Sơn, Hà Nội, vốn đầu tư khoảng 7.000 tỷ đồng,           công suất đốt rác 5.000 tấn rác ướt mỗi ngày, công suất phát điện 75 MW

Như trên đã viết thành tích nổi bật nhất về xử lý CTR Hà Nội là đã đầu tư xây dựng 2 nhà máy Điện Rác, đây là hướng giải quyết ô nhiễm CTR tốt nhất, nhưng chỉ tiếc rằng thời gian đầu tư 2 nhà máy này quá muộn. Tương lai, nếu 2 nhà máy này vận hành tốt thì đã xử lý được tới 72% tổng lượng CTR phát sinh hàng ngày của Hà Nội.

4. Kiến nghị một số giải pháp cơ bản để cải thiện môi trường Hà Nội

Chúng tôi kiến nghị 7 giải pháp cơ bản nhằm cải thiện các vấn đề ô nhiễm môi trường cấp bách của Hà Nội sau đây:

- Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các tổ chức quản lý môi trường từ xã phường, quận huyện đến toàn thành phố, đặc biệt là bảo đảm công tác kiểm tra, kiểm soát các nguồn thải, xử lý nghiêm khắc và kịp thời ở mọi nơi, mọi lúc đối với tất cả các hành vi vi phạm quy định BVMT. Thực thi một cách nghiêm minh tất cả các chính sách và quy định của Nhà nước về BVMT;

- Huy động toàn bộ hệ thống tổ chức chính trị-xã hội tích cức tham gia công tác BVNT. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn dân, toàn xã hội tự giác sống theo phong cách sống xanh, sống thân thiện với môi trường;

- Giải quyết hài hòa giữa phát triển đô thị, phát triển kinh tế-xã hội vơi công tác BVMT. Kiên quyết thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước là “Không đánh đổi môi trường với phát triển kinh tế”;

- Ưu tiên đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây mới hoàn thiện các công trình hệ thống hạ tầng kỹ thuật BVMT của Hà Nội, như là hạ tầng kỹ thuật xử lý 100% các nguồn nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, xử lý 100% các nguồn khí thái, thu gom và xử lý đúng yêu cầu vệ sinh môi trường  100% CTR phát sinh của Hà Nội. Tạo điều kiện thuận lợi để 2 nhà máy Điện Rác hoạt động đúng công xuất thiết kế. Nếu 2 nhà máy này hoạt động đúng công xuất thì đã xử lý an toàn 72% tổng lượng CTR phát sinh hàng ngày của Hà Nội;

- Kiên quyết bảo tồn diện tích các mặt nước sông, hồ, ao trong nội thành hiện nay. Mở rộng phát triển các không gian xanh của Hà Nội tối đa cho phép;

- Kiểm soat giảm thiểu các nguồn thải ô nhiễm môi trường xây dựng ở Hà Nội (đây là vấn đề rất đặc thù của Việt Nam vì đang trong giai đoạn hiện đại hóa và đô thị hóa mạnh mẽ). Như là kiểm soát môi trường chặt chẽ đối với các xe cộ vận tải đất cát, vật liệu xây dựng, bắt buộc áp dụng các công nghệ xây dựng giảm thiểm ô nhiễm môi trường trong thi công xây dựng. Đặc biệt, cần quan tâm kiểm tra, kiểm soát môi trường đối với thi công sửa chữa, cải tạo, nâng cấp vỉa hè, hệ thống các đường giao thông, các hệ thống đường ống ngầm dưới mặt đất, như là hệ thống đường ống cấp thoát nước, hê thống đường điện, cáp quang, hệ thống cấp xăng dầu, khí đốt dưới mặt đất.

- KIểm soát các nguồn khí thải của các loại xe cộ theo tiêu chuẩn EURO4. Phấn đấu đạt chỉ tiêu đã đặt ra là 100% không sử dụng bếp đun than tổ ong trong thành phó, 100% không đốt rơm rạ trong mùa thu hoạch lúa ở ngoại thành Hà Nội.

Tài liệu tham khảo

1.    Phạm Ngọc Đăng. Áp dụng giải pháp ngăn chặn triệt để nước thải vào Hồ Tây và các sông hồ Hà Nội.  Tạp chí “Môi trường”, số 9 – 2014.

2.     Phạm Ngọc Đăng. Bàn về các tiêu chí thành phố xanh, bền vững môi trường ở nước ta. Tuyển tập công trình Hội thảo “ Giải pháp công nghệ và kỹ thuật phát triển công trình xanh và đô thị xanh tại Việt Nam”. Hội Môi trường Xây dựng Việt Nam và Hội KHKT Lạnh và ĐHKK Việt Nam, ngày 14/2/2019.

3.     Phạm Ngọc Đăng. Đánh giá diễn biến chất lượng môi trường không khí một số đô thị nước ta và đề xuất giải pháp cải thiện. Tạp chí Môi trường số 2/2020, ISS.2615-9597.

4.     Nguyễn Thủy. Ô nhiễm môi trường ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Cộng sản, tháng 10 năm 2022.

5.     Vũ văn Hạnh, Nguyễn Thu Hiền. Nghiên cứu quản lý chất thải rắn xây dựng tại Hà Nội theo định hướng kinh tế tuần hoàn. Tạp chí Môi trường số chuyên đề tiếng Việt I-2022

 

 

Lượt xem : 643